Loading...
Cộng đồng thiền Việt Nam

Chi hội phát triển cộng đồng thiền Việt Nam

Cộng đồng thiền Việt Nam

image-alt-text

Chương 2: Sống với vị Lạt ma – Lobsang Rampa

Chương 2: Sống với vị Lạt ma – Lobsang Rampa

09:10 28/09/2021

Sau nhiều biến cố, người ta thường tinh tường hơn. Việc viết sách cũng giúp ôn lại chút ký ức. Qua nhiều năm khó khăn, tôi thường nghĩ đến lời của Cây Táo Già: ‘Này Mèo con, đây chưa phải là kết thúc. Cô có lý do để sống tiếp.” Ngày ấy, tôi chỉ cho đây là lời an ủi để giúp mình phấn chấn hơn. Nhưng giờ đây tôi biết rõ. Giờ đây – vào lúc cuộc đời đã xế bóng – tôi có rất nhiều hạnh phúc; chỉ cần vắng mặt một lúc là tôi sẽ nghe thấy tiếng gọi “Feef đâu rồi? Nó có sao không?”, khi ấy tôi biết mình thực sự được yêu thương vì chính tôi, chứ không phải vì vẻ bề ngoài. Nhưng thời còn trẻ, mọi sự rất khác; tôi chỉ là món đồ trưng bày, hay như một vài người tân thời thường nói – một món đồ để gợi chuyện. Hay như người Mỹ thường gọi thì là một món đồ làm cảnh.

It is easy to be wise after the event. Writing a book brings back one’s memories. Through years of hardship I often thought of the words of the Old Apple Tree: “Little Cat, this is not the end. You have a purpose in life.” Then I thought it was mainly a kindness to cheer me. Now I know better. Now—in the evening of my life—I have much happiness; if I am absent for even a few moments I hear, “Where’s Feef? Is she all right?” and I know that I am truly wanted for myself, not just for my appearance. In my young days it was different; I was merely a showpiece, or as modern people have it—a “conversation piece.” The Americans would call it a gimmick.

Bà Đại Sứ có hai nỗi ám ảnh. Bà ta bị chi phối bởi ý tưởng phải trèo cao, thật cao trong nấc thang danh vọng ở Pháp, và việc mang tôi ra khoe với thiên hạ như một món trang sức giúp ích cho sự thành công đó. Tôi đã rất bất ngờ với điều này, bởi bà ta ghét mèo (trừ khi ở trước mặt thiên hạ), còn tôi thì không được phép vào trong nhà trừ những lúc có khách đến thăm. Ký ức về buổi “khoe mẽ” đầu tiên còn hiện rõ mồn một trong đầu.

Mme. Diplomat had two obsessions. She was obsessed with the idea that she should climb higher and ever higher in the social scale of France, and showing me off to people was a sure charm to success. It amazed me, because she hated cats (except in public), and I was not allowed in the house unless there were visitors. The memory of the first “show off” is vivid in my mind.

Nằm trong vườn vào một ngày nắng ấm, tôi mải mê quan sát những bông hoa và những chú ong đang mang rải phấn hoa trên chân của chúng một lúc lâu. Tiếp đó tôi xem xét gốc của một cây dương. Chú chó nhà hàng xóm vừa ở đấy lúc nãy và để lại một thông điệp mà tôi muốn giải mã. Chốc chốc nhìn liếc qua vai để đảm bảo mọi thứ đã an toàn, tôi chăm chú phân tích thông điệp. Tôi dần trở nên tập trung hơn và quên bẵng những sự kiện quanh mình. Ấy rồi, một bàn tay thô ráp túm lấy tôi, kéo tôi ra khỏi việc nghiên cứu thông điệp của chú chó. ‘Psst!’ tôi khè và búng người thoát ra. Nhanh như chớp, tôi trèo lên một thân cây và nhìn xuống. “Chạy trước rồi mới ngoái lại,” Mẹ đã dạy như thế, “Thà cắm đầu chạy một mạch còn hơn là dừng lại để rồi không còn có cơ hội chạy nữa.’

I was in the garden on a warm, sunny day. For some time I had been studying the flowers, watching the bees carry pollen on their legs. Then I moved on to examine the foot of a poplar tree. A neighbour’s dog had recently been there and left a message which I wanted to read. Casting frequent glances over my shoulder to see that all was safe, I devoted my attention to the message. Gradually I became more and more interested and more and more withdrawn from the events around me. Unexpectedly, rough hands grabbed me and woke me from my contemplation of the dog-message. “Pssst!” I hissed as I leaped free, giving a backwards swipe as I did so. Quickly I scrambled up the tree trunk and looked down. “Always run first and look afterwards,” Mother had said, “It is better to run needlessly than to stop and never be able to run again.”

Tôi cúi xuống nhìn. Gã làm vườn Pierre đang ôm mũi. Một giọt máu đỏ chảy qua kẽ tay hắn ta. Nhìn lên với ánh mắt đầy căm phẫn, hắn ta cúi người nhặt một hòn đá rồi ném thật mạnh. Tôi núp vào thân cây né, dẫu thế, sức rung khi hòn đá đập vào thân cây cũng suýt nữa làm tôi ngã. Hắn vừa chực cúi người nhặt một hòn đá nữa thì từ bụi cây sau lưng, bà Albertine, nhẹ nhàng dẫm lên nền đất rêu phong tiến tới. Lặng thinh liếc nhìn toàn cảnh, bà nhanh chân đạp mạnh về phía trước, gã Pierre ngã đập mặt xuống đất. Bà nắm cổ áo và lôi gã ta dậy. Lay thật mạnh gã đàn ông nhỏ bé, bà xoay gã ta một vòng.
“Anh mà làm con mèo đó bị thương thì sẽ biết tay tôi! Bà Đại sứ kêu anh đi tìm nó, chứ không phải làm hại nó, đồ ngốc.”

I looked down. There was Pierre the Gardener holding the end of his nose. A trickle of scarlet blood was leaking past his fingers. Looking at me with hate, he stooped, picked up a stone, and threw it with all his strength. I dodged round the trunk, but even so the vibration of the stone against the trunk almost shook me free. He bent to pick up another stone just as the bushes parted behind him and Madame Albertine, walking silently on the mossy ground, stepped through. Taking in the scene at a glance, she swiftly shot a foot forward, and Pierre fell face-down on to the earth. She grabbed him by his collar and jerked him upright. Shaking him violently—he was just a little man—she swung him round. “You hurt that cat and I KILL you, see! Mme. Diplomat sent you to find her, you son of a pig, not hurt her.”

“Con mèo nhảy khỏi người tôi khiến tôi va vào cây chảy máu mũi”, Pierre lí nhí, “tôi đau quá nên mới nổi nóng.” Bà Albertine nhún vai rồi xoay về phía tôi.
“Fifi, Fifi, ra với bà nào”, bà gọi.
“Con đến đây”, tôi kêu trả lời rồi ôm thân cây tuột xuống.

“The cat jumped out of my hands and I fell against the tree and made my nose bleed,” Pierre muttered, “I lost my temper because of the pain.” Madame Albertine shrugged and turned to me. “Fifi, Fifi, come to Mama,” she called. “I’m coming,” I yelled as I put my arms round the tree trunk and slithered down backwards.

“Con phải ngoan nhé Fifi bé bỏng,” bà Albertine nói, “Phu nhân muốn khoe con với khách khứa.”
Từ “phu nhân” luôn làm tôi thắc mắc. Ngài Đại sứ có nhân tình ở Paris, vậy thì làm sao bà Đại sứ lại là phu nhân được chứ. Dẫu sao, tôi nghĩ, nếu họ muốn gọi bà ta là “Phu nhân” thì cũng chẳng việc gì đến tôi! Những người này thật kỳ lạ và vô lý hết sức.

“Now you be on your best behaviour, Little Fifi,” said Madame Albertine, “The Mistress wants to show you to her visitors.” The term “Mistress” always amused me. Monsieur le Duc had a Mistress in Paris, so how was Mme. Diplomat the Mistress. However, I thought, if they want her to be called “Mistress” as well it will not hurt me! These were very strange and irrational people.

Chúng tôi đi cùng nhau dọc bãi cỏ, bà Albertine ẵm tôi để giữ cho chân tôi sạch sẽ khi gặp khách khứa. Vừa bước lên bậc đá rộng phía bên kia ban công, tôi thấy một con chuột đang nhanh nhảu rúc vào một cái hố cạnh bụi cây. Qua cánh cửa mở của phòng khách, tôi thấy một đám đông đang ngồi tán chuyện như một bầy chim sáo.
“Tôi đã mang Fifi về đây thưa bà!” bà Albertine nói.
“Phu nhân” nhảy cẫng lên và giật lấy tôi từ tay người bạn của tôi.
“Ôi mèo cưng Fifi của ta!” bà ta reo lên và xoay người nhanh đến mức làm tôi chóng mặt. Đám đàn bà đứng lên và kéo lại gần, reo lên những tiếng cảm thán đầy thích thú. Mèo Xiêm rất hiếm ở Pháp ngày ấy. Ngay cả cánh đàn ông cũng phải kéo đến ngó nhìn một cái. Khuôn mặt đen với thân hình trắng và chiếc đuôi đen của tôi có vẻ rất thú vị với họ.
“Hiếm nhất trong các giống hiếm đấy”, bà chủ nói, “thuần chủng hoàn toàn, đáng giá cả gia tài đấy. Tôi cưng nó lắm, tối nào tôi cũng cho nó ngủ cạnh.” Tôi lên tiếng phản đối, mọi người lập tức e dè lùi lại.
“Nó chỉ đang nói chuyện thôi mà,” bà Albertine giải thích, bà đã được hạ lệnh phải ở tại Phòng khách trong trường hợp có sự cố xảy ra. Và cũng như tôi, bà Albertine ngạc nhiên ra mặt khi nghe những lời điêu ngoa từ miệng Bà chủ.
“Ôi, Renée, khi nào đi Mỹ chị cũng phải mang nó theo đấy, các quý bà người Mỹ chắc chắn sẽ giúp sự nghiệp chồng chị thăng tiến nếu họ thích chị và con mèo của chị đủ gây chú ý”.
Bà chủ mím chặt đôi môi mỏng đến độ không còn thấy nữa. “Mang nó theo à?”, bà ta hỏi lại, “Tôi biết làm cách nào cơ chứ? Nó có thể gây ra rất nhiều phiền toái và lúc đó mang nó trở lại mới thật khó.”

We walked together across the lawn, Madame Albertine carrying me so that my feet should be clean for the visitors. Up the broad stone steps we went—I saw a mouse scurry into a hole by a bush—and across the balcony. Through the open doors of the Salon I saw a crowd of people sitting and chattering like a flock of starlings. “I have brought Fifi, Madame!” said Madame Albertine. “The Mistress” jumped to her feet and gingerly took me from my friend. “Oh my darling sweet little Fifi!” she exclaimed as she turned so quickly that I was made giddy. Women rose to their feet and crowded close, uttering exclamations of delight. Siamese Cats were a rarity in France in those days. Even the men present moved to have a look. My black face and white body, ending with a black tail, seemed to intrigue them. “Rarest of the rare,” said the Mistress, “A wonderful pedigree, she cost a fortune. So affectionate, she sleeps with me at night.” I yelled a protest at such lies, and everyone jumped back in alarm. “She is only talking,” said Madame Albertine, who had been ordered to stay in the Salon “just in case.” Like me, Madame Albertine’s face was registering astonishment that the Mistress should tell such absolute falsehoods. “Oh, Renée,” said a women visitor, “You should take her to America when you go, American women can very greatly assist your husband’s career if they like you and the little cat certainly draws attention.” The Mistress pursed up her thin lips so that her mouth completely disappeared. “Take her?” she queried, “How would I do that? She would make trouble and then there would be difficulties when we brought her back.”
“Đừng vô lý, Renée, chị làm tôi ngạc nhiên quá đấy,” người bạn trả lời. “Tôi quen một bác sĩ thú y, ông ấy có thể cho thuốc để con mèo ngủ suốt chuyến đi. Chị chỉ cần cho nó vào trong hộp thú cưng rồi gửi như hành lý ngoại giao.”

Bà chủ gật đầu và trả lời, “Vậy thì, Antoinette, cho tôi địa chỉ đi.’
“Nonsense, Renée, I am surprised at you,” replied her friend. “I know a vet who can give you a drug to put her to sleep for the whole air trip. You can have her go in a padded box as diplomatic luggage.” The Mistress nodded her head, “Yes, Antoinette, I will have that address, please,” she answered.
Tôi còn phải ở lại Phòng khách thêm một lúc lâu nữa để người ta chiêm ngưỡng, cảm thán về những chiếc chân dài, và bàn luận về cái đuôi đen của tôi.
“Tôi nghĩ tất cả những giống mèo Xiêm tốt nhất đều có đuôi quăn,” một người nói.
“Ồ không”, Bà chủ xen vào, “mèo Xiêm có đuôi quăn không phải mốt bây giờ. Đuôi càng thẳng thì mèo càng quý. Sắp tới chúng tôi sẽ đem nó đi phối giống và sẽ có mèo con.”

For some time I had to remain in the Salon while people exclaimed at my figure, expressed amazement at the length of my legs and the blackness of my tail. “I thought all the best type of Siamese cat had a kinky tail,” said one. “Oh, no,” asserted the Mistress, “Siamese cats with kinked tails are not now the fashion. The straighter the tail the better the cat. Shortly we shall send this one to be mated then we shall have kittens for disposal.”

Bà Albertine cuối cùng cũng được rời Phòng khách.
“Phù!” bà thở phào “Ta thà chơi với loài bốn chân còn hơn phải ở cùng cái giống hai chân ấy”.
Nhanh chóng liếc nhìn xung quanh, tôi chưa thấy mèo hai chân bao giờ và thật sự không thể tưởng tượng được họ sẽ xoay xở thế nào. Chẳng có gì phía sau tôi ngoại trừ cánh cửa đóng, tôi lắc đầu rồi bước đi bên cạnh bà Albertine.

At long last Madame Albertine left the Salon. “Phew!” she exclaimed, “Give me four-legged cats any time rather than that two-legged variety.” Quickly I glanced around, I had never seen two-legged cats before and did not really understand how they would manage. There was nothing behind me except the closed door so I just shook my head in bewilderment and walked on beside Madame Albertine.

Bóng đêm dần buông xuống và một cơn mưa nhẹ khẽ tạt vào cửa sổ khi tiếng chuông điện thoại trong phòng bà Albertine vang lên khô khốc. Bà nhoài người nhấc máy và giọng the thé của Bà chủ xé nát sự yên tĩnh.
“Albertine, con mèo có trong phòng không?” “Có thưa bà, nhưng nó chưa khoẻ.” Bà Albertine đáp.
Giọng Bà chủ tăng thêm một tông “Tôi đã nói với bà rồi, Albertine, tôi sẽ không cho nó ở trong nhà trừ khi có khách. Mang nó ra nhà ngoài ngay lập tức. Tôi đang tự hỏi liệu mình có đang quá tử tế khi giữ một người vô dụng như bà!”

Darkness was falling and a light rain was pattering on the windows when the telephone in Madame Albertine’s room jangled irritably. She rose to answer it and the Mistress’s shrill voice disturbed the peace. “Albertine, have you the cat in your room?” “Yes, Ma’am, she is not yet well.” Replied Madame Albertine. The Mistress’s voice rose an octave, “I have told you, Albertine, I will not have her in the house unless visitors are here. Take her to the outhouse at once. I wonder at my goodness in keeping you, you are so useless!”

Bà Albertine miễn cưỡng khoác một chiếc áo len dày, chật vật mặc áo mưa và quấn thêm một chiếc khăn choàng quanh cổ. Bà nhấc tôi lên, đặt vào một chiếc khăn rồi đưa tôi xuống lối cầu thang phía sau. Ngừng lại ở sảnh của Gia Nhân để lấy một chiếc đèn rọi, bà tiếp tục đi ra cửa. Một cơn gió buốt hắt vào mặt chúng tôi. Những vệt mây hối hả trôi trên bầu trời đêm. Trên một cây dương cao, một con cú kêu lên phẫn nộ vì sự xuất hiện của chúng tôi đã doạ con chuột mà nó đang săn chạy mất. Những cành cây ướt sũng rẩy từng đợt nước lên người. Lối đi trơn trượt và khó thấy trong bóng đêm. Bà Albertine cẩn trọng bước theo ánh sáng yếu ớt của chiếc đèn, lẩm bẩm nói xấu bà Đại Sứ và những thói ngang ngược của bà ta.

Reluctantly Madame Albertine drew on a heavy woolen knitted coat, struggled into a raincoat, and wrapped a scarf around her head. Lifting me, she wrapped a shawl around me and carried me down the backstairs. Stopping at the Servants’ Hall to pick up a flashlight, she walked to the door. A blustering wind blew into our faces. Scudding clouds raced low across the night sky. From a tall poplar tree an owl hooted dismally as our presence scared off the mouse which he had been hunting. Rainladen branches brushed against us and shed their load of water over us. The path was slippery and treacherous in the dark. Madame Albertine cautiously shuffled along, picking her steps by the feeble light of the flashlight, muttering imprecations against Mme. Diplomat and all she stood for.

Bóng đen của nhà kho dệt thêm một vệt trên nền tối của những cái cây trước mặt. Bà mở cửa bước vào. Có tiếng đổ vỡ, có vẻ như một chậu cây nào đó, bị quệt bởi bộ đồ cồng kềnh của bà, rơi xuống đất. Dù đã cố hết sức, đuôi của tôi vẫn dựng ngược vì sợ và một luồng điện chạy dọc sống lưng. Khua đèn theo hình vòng cung trước mặt, bà Albertine đi sâu vào nhà kho đến chỗ một chồng báo cũ, nơi sẽ là chiếc giường của tôi.
“Mình ước gì mụ đàn bà đó cũng bị nhốt vào một chỗ như thế này,” bà lẩm bẩm một mình. “cho mụ ta bớt cái tính kênh kiệu.”
Nhẹ nhàng đặt tôi xuống, bà lấy sẵn nước cho tôi – bởi vì tôi không đời nào uống sữa mà chỉ uống nước trắng thôi – và đặt thêm vài mẩu đùi ếch bên cạnh. Xoa nhẹ đầu tôi, bà từ từ lùi ra và đóng cửa lại. Tiếng bước chân nhỏ dần, chìm nghỉm trong tiếng gió rít và tiếng mưa dội xuống mái tôn.

The outhouse loomed before us, a darker patch in the darkness of the shading trees. She pushed open the door and entered. There was a frightening crash as a plantpot, caught by her voluminous clothes, swept to the floor. In spite of myself, my tail fluffed with fright and a sharp ridge formed along the length of my spine. Flashing her light in a semi-circle before her, Madame Albertine edged further into the shed toward the pile of old newspapers which was my bed. “I’d like to see That Woman shut in a place like this,” she muttered to herself. “It would knock some of the fancy airs out of her.” Gently she put me down, saw that there was water for me—I never drank milk now, only water—and put a few scraps of frogs’ legs beside me. Patting my head, she slowly backed out and shut the door behind her. The fading sound of her footsteps was drowned by the keening of the wind and the pattering of the rain upon the galvanized iron roof.

Tôi chẳng ưa gì cái nhà kho này. Con người thường bỏ quên tôi và tôi không thể đi ra ngoài cho đến khi cửa được mở. Tôi thường bị nhốt ở đây có khi đến 2,3 ngày không có thức ăn và nước uống. Kêu gào cũng chẳng ích gì vì nhà kho quá xa nhà chính, thọt lỏm trong một bụi cây cách xa đằng sau lưng của tất cả các toà nhà khác. Tôi chỉ nằm đó trong cơn đói, càng lúc càng trở nên kiệt quệ, chờ đợi ai đó trong nhà chính nhớ đến mình và đi tìm.

I hated this shed. Often people forgot all about me, and I could not get out until the door was opened. All too frequently I stayed there without food or water for two or even three days. Shouts were of no avail, for it was too far from the house, hidden in a grove of trees far at the back of all other buildings. I would just lie and starve, becoming more and more parched, waiting for someone in the house to remember that I had not been seen about for a time, then come and investigate.

Mọi thứ so với hiện tại hoàn toàn khác; ở đây tôi được đối xử như con người. Từ chỗ gần chết đói, giờ đây tôi được cho ăn cho uống đầy đủ, được ngủ trong phòng trên chiếc giường của riêng mình. Nhìn lại suốt chừng đó năm, quá khứ như một chuyến hành trình dài xuyên đêm và tôi bây giờ đã thoát ra, tìm thấy sự ấm áp của ánh mặt trời và tình yêu thương. Trong quá khứ, tôi luôn phải cảnh giác mỗi khi nghe những tiếng bước chân nặng nề. Giờ đây mọi người luôn săn sóc tôi. Đồ nội thất không bao giờ bị dịch chuyển trừ khi tôi đã biết về vị trí mới của chúng, bởi tôi đã mù và quá già để có thể tự chống đỡ cho bản thân. Ngài Lạt Ma nói, tôi là một bà lão được yêu mến, đang an hưởng tuổi già với niềm vui và sự thanh thản. Khi viết ra những lời này, tôi đang nằm dài trên một chiếc ghế, dưới ánh nắng ấm áp của mặt trời.

Now it is so different; here I am treated as a human. In place of near-starvation I always have food and drink, and I sleep in a bedroom on a real bed of my own. Looking back through the years it seems as if the past was a journey through a long night and I have now emerged into the sunlight and warmth of love. In the past I had to beware of heavy feet. Now everyone looks out for ME! Furniture is never shifted unless I am made aware of its new location, because I am blind and old and can no longer fend for myself. As the Lama says, I am a dearly loved old granny who is enjoying peace and happiness. As I dictate this I sit in a comfortable chair where the warm rays of the sun fall upon me.

Nhưng quay trở lại với câu chuyện, những ngày Tối Tăm vẫn đang bao trùm lấy tôi và ánh dương chưa phá xuyên cơn bão này.

But all things in their place, the Days of Shadows were still upon me and the sunlight had yet to break through the storm-wrack.

Một ngày, tôi nhận thấy bên trong mình có một vài sự khuấy động lạ lùng. Không biết chắc nó là gì, tôi chỉ khẽ cất một bài hát. Đi đi lại lại, tôi thấy mình tìm kiếm điều gì đó. Sự khuấy động trong tôi rất mơ hồ nhưng cấp bách. Ngồi bên cạnh một cửa sổ đang mở – mà không dám đi vào – tôi nghe tiếng bà Đại sứ đang nói trên điện thoại. “Đúng rồi, nó đang gào đực đấy. Tôi sẽ gửi nó đi ngay và ngày mai sẽ lấy về. Đúng vậy, tôi muốn bán mèo con càng sớm càng tốt.” Một lúc sau, Gaston đi đến, bắt tôi bỏ vào một chiếc hộp gỗ ngột ngạt có nắp đóng chặt. Mùi của chiếc hộp, dù khá ngột ngạt, nhưng rất thú vị. Nó đã được dùng để đựng đồ tạp hoá. Đùi ếch và ốc sên. Thịt sống và rau xanh. Tôi thích thú tìm hiểu đến nỗi chẳng hay biết Gaston đã nhấc chiếc hộp đi và mang tôi đến ga-ra từ bao giờ. Chiếc hộp được đặt trên nền bê-tông một lúc lâu. Mùi dầu nhớt và xăng khiến tôi nôn nao. Cuối cùng, Gaston cũng trở lại ga-ra, mở cổng chính và nổ máy chiếc xe hơi thứ hai của chúng tôi, một chiếc Citroen cũ kỹ. Vứt cái hộp chứa tôi một cách thô bạo vào trong cốp, hắn ta lên xe và lái đi. Chuyến đi thật kinh khủng, hắn ta cua thật nhanh, khiến chiếc hộp văng đập vào thùng xe. Cứ mỗi khúc cua việc đó lại lặp lại. Tối tăm dày đặc, khói từ động cơ làm tôi kiệt sức vì ngạt thở và ho, tưởng chừng chuyến đi này không bao giờ kết thúc.

Strange stirrings took place within me. Softly, for I was as yet unsure of myself, I sang a song. I padded round the grounds seeking SOMETHING. My longings were vague, yet urgent. Sitting beside an open window—not daring to enter—I heard Mme. Diplomat using the telephone. “Yes, she is calling. I will send her immediately and have her collected tomorrow. Yes, I want to sell the kittens as soon as possible.” Shortly after, Gaston came to me and put me in a stuffy wooden box with the lid fastened securely. The smell of the box, apart from the stuffiness was MOST interesting. Groceries had been carried in it. Frogs’ legs and snails. Raw meats and things that were green. I was so interested that I hardly noticed when Gaston lifted the box and carried me off to the garage. For a time the box was left resting on the concrete floor. The smell of oil, and petrol made me feel sick. At last Gaston entered the garage again, opened the big front doors, and started up our second car, an old Citroen. Tossing my box rather roughly into the luggage space, he entered the front and drove off. It was a terrible ride, we took corners so fast that my box slid violently and stopped with a bump. At the next corner the process would be repeated. The darkness was intense, and the fumes from the engine exhaust made me choke and cough. I thought the journey would never end.

Chiếc xe quay ngoắt, có tiếng bánh cao su phanh kin kít, rồi một cú giật mạnh khiến chiếc hộp của tôi nhào ngược. Tôi trượt trúng một đầu sắc, và mũi chảy máu. Chiếc Citroen dừng lại, ngay sau đó tôi nghe thấy những giọng nói. Thùng xe được mở ra, một sự im lặng trong phút chốc, rồi một giọng nói lạ cất lên “Nhìn kìa, máu!”. Chiếc hộp được nhấc lên, tôi thấy quay cuồng như ai đó đang mang nó đi. Lên vài bậc, bóng tối phả vào khe nứt của chiếc hộp, tôi đoán mình đang ở trong một ngôi nhà hoặc một nhà kho. Cánh cửa đóng sập lại, tôi bị nhấc bổng và đặt lên trên một chiếc bàn.

Violently the car swerved, there was the horrid squeal of skidding rubber, and as the car straightened and shot ahead once more my box rolled over, upside-down. I slid against a sharp splinter and my nose began to bleed. The Citroen juddered to a stop and soon I heard voices. The luggage compartment was opened and for a moment there was silence, then, “Look, there is blood!” a strange voice said. My box was lifted, I felt swaying as someone carried it along. Some steps were climbed and shadow fell across the cracks of the box and I guessed that I was inside a house or shed. A door shut, I was lifted higher and put on a table.

Tiếng tay sột soạt bên ngoài chiếc hộp, rồi nắp hộp bật mở. Tôi loá mắt vì ánh sáng bất ngờ. “Tội nghiệp chú mèo nhỏ!” một giọng phụ nữ cất lên. Thò tay vào trong hộp, bà luồn xuống dưới bụng tôi và nhấc tôi ra. Tôi cảm thấy nôn nao mệt mỏi, quay cuồng vì mùi dầu máy, choáng váng vì chuyến đi bão táp, và mũi đang chảy khá nhiều máu. Gaston đứng đực, mặt trắng bệch sợ hãi. “Tôi sẽ gọi cho bà Đại Sứ,” một giọng đàn ông nói. “Xin đừng làm tôi mất việc,” Gaston van xin, “Tôi đã lái rất cẩn thận.” Người đàn ông nhấc điện thoại trong lúc người phụ nữ lau vệt máu trên mũi tôi. “Bà Đại Sứ,” ông ta nói, “chú mèo của bà bị ốm rồi, nó không được ăn uống đầy đủ và chuyến đi này đã làm nó sang chấn. Bà sẽ làm chết nó, thưa bà, trừ khi bà chăm sóc nó tử tế hơn.”

Fumbling hands scraped against the outer surface, then the lid was thrown open. I blinked in the sudden light. “Poor little cat!” said a woman’s voice. Reaching in she put her hands beneath me and lifted me out. I felt ill, sick and dizzy with the exhaust fumes, half stunned from the violent journey, and bleeding from the nose quite heavily. Gaston stood by looking white and frightened. “I must telephone Mme. Diplomat,” said a man. “Don’t lose me my job,” said Gaston, “I drove very carefully.” The man lifted the telephone while the woman mopped the blood from my nose. “Mme. Diplomat,” said the man, “Your little cat is ill, she is underfed and she has been dreadfully shaken by this journey. You will lose your cat, Madame, unless greater care is taken of her.”

“Ôi trời,”bà Đại sứ đáp lời, “một con mèo mà bao nhiêu phiền phức. Nó được chăm sóc đấy chứ. Tôi sẽ không chiều chuộng để làm hư nó, tôi chỉ muốn nó đẻ ra mèo con.”

“Good Gracious me,” I heard Mme. Diplomat’s voice reply, “Such a trouble for a mere cat. She IS looked after. I do not pamper her and spoil her, I want her to have kittens.”

“Nhưng thưa bà,” người đàn ông trả lời, “Bà sẽ chẳng có mèo và lẫn mèo con nếu nó bị đối xử thế này. Bà đang có một chú mèo Xiêm thuần chủng cực kỳ đáng giá, một trong những giống tốt nhất ở nước Pháp. Tôi biết vì tôi đã phối giống cho mẹ nó. Không chăm sóc nó là một sự uổng phí, chẳng khác gì dùng nhẫn kim cương để cắt kính cả.”

“But Madame,” the man replied, “You will have no cat and no kittens if she is treated like this. You have a very valuable Pedigree Siamese Cat here, of the best strain in the whole of France. I know, I bred her Mother. To neglect this cat is bad business, like using diamond rings to cut glass.”

“Tôi biết ông mà,” bà Đại sứ trả lời, “cậu tài xế có ở đó không, cho tôi nói chuyện với cậu ta.” Người đàn ông lặng lẽ chuyển điện thoại cho Gaston. Trong một lúc lâu, bà chủ xối xả tuôn những lời mắng nhiếc cay nghiệt đến đoạn cuối bà ta quên luôn mục đích của mình mà chỉ đơn thuần xả cho bõ tức. Cuối cùng, sau một hồi đôi co, quyết định cũng được đưa ra. Tôi sẽ ở lại nơi này cho đến khi sức khỏe khá lên. Gaston rời đi mà vẫn run rẩy khi nghĩ về bà Đại sứ. Tôi nằm trên bàn khi hai ông bà này kiểm tra gì đó trên người tôi. Có một cảm giác đau nhói và trước khi kịp nhận ra thì tôi đã chìm vào giấc ngủ.

“I know you,” answered Mme. Diplomat, “Is the chauffeur there, I want to speak to him.” Silently the man passed the telephone to Gaston. For a time the torrent of words from the Mistress was so great, so vitriolic, that it defeated its own end and merely bemused the senses. At last, after much haggling, terms were agreed upon. I was to stay at—where was I?—until I was better. Gaston departed, still shivering as he thought of Mme. Diplomat. I lay upon the table as the man and woman worked upon me. There was the sensation of just a little prick and almost before I realised it I was asleep.

Đó là một cảm giác thật kỳ lạ. Tôi mơ thấy mình ở trên thiên đường nơi rất nhiều chú mèo đang nói chuyện, hỏi tôi đến từ đâu, đang làm gì, cha mẹ tôi là ai. Chúng nói bằng thứ tiếng Pháp hay nhất của mèo Xiêm! Tôi rã rời ngẩng đầu và mở mắt. Bất ngờ bởi khung cảnh xung quanh, đuôi xù lên và một luồng điện chạy dọc cột sống. Cách mặt tôi chỉ một inch thôi là một chiếc cửa lưới thép. Tôi đang nằm trên rơm sạch. Phía bên kia cửa lưới là một gian phòng lớn chứa đủ các loài mèo và chó con. Hàng xóm mỗi bên của tôi đều là mèo Xiêm. “À, tỉnh rồi kìa!” một con nói. “Ôi, đuôi của cậu cụp hẳn xuống khi được đưa đến đây,” một con khác nói. “Cậu đến từ đâu thế?” một cô mèo Ba Tư nói to từ phía bên kia phòng. “Mấy con mèo làm tôi phát ớn,” một cậu chó Toy Poodle càu nhàu từ trong một chiếc hộp đặt trên sàn. “Yeh,” một con chó nhỏ xa khuất tầm mắt tôi lầm bầm, “mấy bà cô này có khi phải đánh mới tỉnh ra,” “nghe con chó lại đang chém gió kìa!” ai đó gần đấy nói; “Cậu ta chưa ở đây đủ lâu để được quyền lên tiếng. Cậu chỉ là tân binh thôi.”

It was a most peculiar sensation. I dreamed that I was in Heaven and a lot of cats were talking to me, asking where I came from, what I was doing, and who my parents were. They were speaking in best Siamese Cat French, too! Wearily I raised my head and opened my eyes. Surprise at my surroundings caused my tail to fluff and a ridge to form along the length of my spine. Inches from my face was a wire mesh door. I was lying on clean straw. Beyond the wire mesh door was a large room containing all kinds of cats and a few small dogs. My neighbours on each side were Siamese cats. “Ah! The wreckage is stirring!” said one. “My! Your tail did droop when you were carried in,” said the other. “Where did you come from?” yelled a Persian from the opposite side of the room. “These cats make me sick,” growled a Toy Poodle from a box on the floor. “Yeh,” muttered a small dog just out of my line of sight, “Dese dames would get slapped down real good Stateside.” “Hark at that Yank dog shootin’ the breeze!” said someone nearby; “He hasn’t been here long enough to have a right to talk. Just a boarder, that’s what he is!”

“Tớ là Chawa,” chú mèo bên phải tôi lên tiếng, “tớ đã được thiến.” “Tớ là Song Tu,” chú mèo bên trái chào hỏi; “Tớ đánh nhau với một con chó, chao ôi, đáng ra các cậu phải xem con chó đó, tớ đã tẩn nó một trận ra hồn!”

“I’m Chawa,” said the cat on my right, “I’ve been spayed.” “Me, I’m Song Tu,” said the cat on my left; “I fought with a dog, gee, you should see that dog, I REALLY worked him over!”

“Tôi là Fifi,” tôi trả lời một cách nhút nhát, “Tôi không biết rằng còn có nhiều mèo Xiêm đến thế ngoài người mẹ quá cố của tôi và tôi.” Có một sự im lặng trong gian phòng lớn, rồi hoàn toàn bị phá tan bởi sự xuất hiện của một người đàn ông mang thức ăn đến. Tất cả cùng nói một lúc. Chó thì tranh ăn trước, mèo thì chê bai chó là những con heo ích kỷ, tiếng lọc cọc của bát đĩa, tiếng ồng ộc của nước được đổ vào bình chứa. Rồi tiếng ừng ực của mấy cậu chó đang bắt đầu ăn.

“I’m Fifi,” I responded timidly, “I didn’t know there were any more Siamese cats than my late Mother and me.” For a time there was quiet in the big room, then complete uproar broke out as a man entered bearing food. Everyone talked at once. Dogs demanding to be fed first, cats calling the dogs selfish pigs, the clatter of feeding dishes and the gurgle of water as drinking containers were filled. Then the slurp slurp as the dogs started eating.

Người đàn ông bước đến và xem xét tôi. Người phụ nữ cũng tiến lại. “Kìa! Nó tỉnh rồi,” “Mèo nhỏ ngoan,” người phụ nữ lên tiếng “Chúng ta phải chăm nó khoẻ lên, tình trạng thế này thì không thể sinh ra mèo con được.” Họ mang cho tôi rất nhiều thức ăn rồi mới di chuyển về phía những con khác. Tôi không cảm thấy thật khoẻ, nhưng nghĩ rằng nếu không ăn thì thật bất lịch sự; thế nên tôi bắt đầu ăn và nhanh chóng chén hết chỗ thức ăn đó. “Ah!” người đàn ông nói khi quay trở lại, “Chắc nó đói lắm.” “Chúng ta để nó ở nhà phụ đi” người phụ nữ nói “nó sẽ được hưởng nhiều ánh sáng hơn và mấy con khác sẽ không quấy rầy nó.”

The man came over and looked at me. The woman entered and came across. “She is awake,” said the man. “Nice little cat,” said the woman. “We shall have to build her up, she will not have kittens in her present state.” They brought me a plentiful supply of food, and moved on to others. I was not feeling so good, but thought it would be bad manners not to eat; so I set to and soon cleared up the whole lot. “Ah!” said the man, coming back, “She was starving.” “Let us put her in the Annexe,” said the woman, “She will get more sunlight there, I think all these other animals bother her.”

Người đàn ông mở chiếc hộp rồi ẵm tôi trên tay, mang tôi đi ngang phòng, qua một cái cửa mà tôi chưa từng thấy trước đó. “Tạm biệt nhé,” Chawa kêu lên “Rất vui được gặp cậu,” Song Tu cũng nói, “Nhớ chào đám mèo tôm giùm tôi nếu cậu có gặp họ!” Chúng tôi đi qua ngưỡng cửa rồi tiến vào một gian phòng đầy ánh sáng, nơi ấy đặt một chiếc chuồng to ở giữa phòng. “Sếp định bỏ nó vào chuồng khỉ à?” một người đàn ông tôi chưa gặp cất tiếng hỏi. “Đúng rồi”, người đàn ông đang ẵm tôi trả lời. “Nó cần được chăm sóc vì với tình trạng bây giờ nó chưa thể có mang được đâu?”. Mang? MANG? Tôi phải mang cái gì cơ? Họ nghĩ rằng tôi phải tới đây làm việc mang chén đĩa sao? Người đàn ông mở cửa chiếc chuồng lớn rồi đặt tôi vào. Nó khá dễ chịu, ngoại trừ mùi thuốc diệt khuẩn. Trong đó có vài nhánh cây, kệ và một chiếc hộp phủ rơm êm ái mà tôi có thể chui vào ngủ. Tôi đi dạo trong lồng một cách thận trọng, vì Mẹ đã dạy tôi phải kiểm tra thật kỹ lưỡng khi bước vào một nơi lạ lẫm. Một nhánh cây trông thật mời mọc, vậy nên tôi cào móng để thể hiện rằng tôi đã ổn định ở đây. Leo lên nhánh cây tôi nhận ra rằng mình có thể nhìn xuyên qua một hàng rào và nhìn xa hơn.

The man opened my box and cradled me in his arms as he carried me across the room and through a door which I had not been able to see before. “Goodbye,” yelled Chawa “Nice meeting you,” screamed Song Tu, “Remember me to the Toms when you meet them!” We passed through the doorway and entered a sunlit room where there was one large cage in the centre. “Going to put her in the monkey cage, Boss ” asked a man whom I had not seen before. “Yes,” replied the man who was carrying me, “She needs looking after because she would not carry in her present state.” Carry? CARRY? What was I supposed to carry? Did they think I was going to work here at carrying dishes or something? The man opened the door of the big cage and put me in. It was nice, except for the smell of disinfectant. There were tree branches and shelves and a pleasant, straw-lined box in which I could sleep. I wandered around cautiously, for Mother had taught me to most thoroughly investigate any strange place before settling down. A tree branch was inviting, so I did my claws to show that I had settled in. By walking up the branch I found that I could look over a small hedge and see beyond.

Đây là một khu đất rất rộng và khép kín, với lưới phủ cao khắp xung quanh. Những cây nhỏ và bụi rậm trồng đầy mặt đất. Đang mải mê quan sát thì bất chợt thấy một anh chàng mèo Xiêm lọt vào tầm mắt của tôi. Anh ta có vóc dáng rất đẹp, thon dài với bờ vai dày và chiếc đuôi đen nháy. Vừa chầm chậm bước đi trên mặt đất, anh ta vừa hát một bản tình ca mới nhất. Tôi nhập tâm lắng nghe, nhưng bấy giờ lại quá nhút nhát để hát đối lại. Tôi thấy tim mình đập thình thịch, và một cảm giác lạ lẫm xuất hiện. Một tiếng thở dài tiếc nuối khi anh ta đi khỏi tầm mắt.

There was a very very large enclosed space, with netting all the way around it and all the way across the top. Small trees and bushes studded the ground. As I watched, a most magnificent Siamese Tom strolled into view. He was a gorgeous figure, long and slim, with heavy shoulders and the blackest of black tails. As he walked slowly across the ground he was singing the latest love song. I listened entranced, but for the moment was too shy to sing back to him. My heart fluttered, and I had the strangest feelings. A deep sigh escaped me as he wandered out of sight.

Tôi ngồi lại kinh ngạc một lúc lâu trên cành cây ca. Đuôi vung vẩy cụp ra cụp vào còn chân thì run rẩy vì những cảm xúc dâng trào đến nỗi đứng không vững. Một chàng mèo thật điển trai biết bao! Tôi có thể tưởng tượng cảnh anh ta được sủng ái thế nào trong một ngôi đền ở xứ Xiêm xa xôi, những vị tu sĩ áo vàng trìu mến vuốt ve khi anh ta lười biếng phơi mình dưới ánh nắng. Và – liệu tôi có nhìn nhầm không? – tôi có cảm giác anh ta đã liếc về phía tôi và biết tất tần tật về tôi. Đầu tôi rối tung với biết bao suy nghĩ về tương lai. Chậm chạp và run rẩy, tôi bò xuống khỏi thân cây, rúc vào chiếc hộp ngủ, rồi nằm nghĩ vẩn vơ hết thứ này đến thứ khác.

For a time I sat bemused on the topmost reach of that branch. My tail twitched spasmodically, and my legs trembled so much with emotion that they would scarce support me. What a Tom, what a superb figure! I could well imagine him gracing a Temple in far-off Siam, with yellow-robed priests greeting him as he lazed in the sun. And—was I mistaken?—I felt that he had glanced in my direction, knew all about me. My head was awhirl with thoughts of the future. Slowly, shakily, I descended the branch, entered the sleeping box, and lay down to think things over.

Đêm đó, tôi trằn trọc; ngày hôm sau, người đàn ông kia nói tôi bị sốt vì chuyến đi vất vả và khói xe độc hại. Nhưng tôi biết vì sao mình sốt! Gương mặt đen điển trai với chiếc đuôi dài đã ám ảnh tôi suốt trong giấc ngủ. Người đàn ông nói tôi đang ở trong tình trạng rất tệ và phải nghỉ ngơi. Bốn ngày liên tục, tôi sống trong chiếc lồng, ăn và nghỉ. Sáng hôm sau, tôi được dẫn đến một ngôi nhà nhỏ phía trong không gian phủ lưới đó. Sau khi ổn định, tôi nhìn quanh và phát hiện một bức tường lưới ngăn cách giữa chuồng của tôi và anh mèo đẹp trai. Chuồng của anh ta gọn gàng và được giữ sạch sẽ, đống rơm cũng tươm tất và bát nước không chút gợn nào trên bề mặt. Anh ta không có ở đấy, tôi đoán là anh ta đang đi dạo trong vườn ngắm cây cối.

That night I slept restlessly; the next day the Man said I had a fever through the bad car journey and the exhaust fumes. I knew why I had the fever! His handsome black face and long sweeping tail had haunted my sleeping hours. The Man said I was in poor condition and must rest. For four days I lived in that cage, resting and eating. The next morning I was led to a little house inside the netting enclosure. Settling down, I looked about me and saw that there was a netting wall between my compartment and that of the Handsome Tom. His room was neat, and well kept, his straw was clean, and I saw that his bowl of water had no dust floating on the surface. He was not in then, I guessed that he was in the enclosed garden seeing about the plants.

Mơ màng tôi nhíu mắt lại và thiếp đi. Một giọng nói trầm ấm đánh thức tôi, tôi bẽn lẽn liếc sang bức tường lưới. “Chà!” anh Mèo Xiêm lên tiếng, “hân hạnh được gặp cô.” Gương mặt đen lớn áp sát vào lớp lưới, cặp mắt xanh sáng hướng những suy nghĩ về phía tôi. “Chiều nay tụi mình sẽ được cưới nhau,” anh chàng nói, “Tôi rất vui, còn cô thì sao?” Tôi ngượng ngùng giấu mặt trong đống rơm. “Ồ, đừng lo,” anh ta thốt lên, “tụi mình đang làm những việc rất cao quý, giống của tụi mình không có nhiều ở Pháp. Cô sẽ thích điều đó, chờ xem!” anh ta phá lên cười khi nằm nghỉ sau chuyến đi dạo buổi sáng.

Sleepily I closed my eyes and dozed off. A hearty voice jerked me awake and I glanced timidly towards the netting wall. “Well!” said the Siamese Tom, “Glad to meet you, I’m sure.” His big black face pressed close to the netting, his vivid blue eyes flashing his thoughts towards me. “We are being married this afternoon,” he said, “I’ll like that, will you?” Blushing all over, I hid my face in the straw. “Oh, don’t worry so,” he exclaimed, “We are doing noble work, there are not enough of us in France. You’ll like it, you’ll see!” he laughed as he settled down to rest after his morning walk.

Vào giờ trưa, người đàn ông đi đến và cười tủm tỉm khi nhìn thấy chúng tôi đang ngồi sát gần nhau, chỉ cách một tấm lưới, và đang cùng song ca. Anh mèo đứng lên hét về phía người đàn ông: “Dẹp cái cửa quái quỷ này đi!” với những từ ngữ làm tôi ngượng chín mặt. Người đàn ông thong dong mở khoá cửa, móc nó lại an toàn rồi bỏ đi để mặc chúng tôi.

At lunchtime the Man came in and laughed as he found us, sitting close with only the netting between us, singing a duet. The Tom rose to his feet and roared to the Man: “Get this ***** door out of the way!” using some words which made me blush all over again. The Man leisurely unlatched the door, hooked it back safely, and turned and left us.

Ôi anh chàng mèo, những cái ôm đầy nhiệt huyết, những lời thật ngọt ngào. Sau đó chúng tôi cùng nằm cạnh nhau trong nắng ấm, rồi bỗng nhiên một suy nghĩ nảy đến; tôi không phải là cô mèo đầu tiên! Tôi đứng lên rồi bỏ đi về phòng của mình. Người đàn ông lại đến và lần nữa đóng kín cửa giữa chúng tôi. Tối hôm ấy, ông ấy đến và mang tôi về chiếc chuồng lớn. Tôi ngủ thật êm.

Oh! That Tom, the ardor of his embraces, the things he said to me. Afterwards we lay side by side in a warm glow, and I had the chilling thought; I was not the first! I rose to my feet and strolled back to my own room. The Man came in and once again shut the screen door between us. In the evening he came and carried me back to the big cage. I slept soundly.

Buổi sáng, người phụ nữ đến mang tôi đi về gian phòng mà tôi đã đến khi lần đầu tiên bước vào ngôi nhà này. Bà đặt tôi lên bàn và giữ tôi thật chặt trong khi người đàn ông kiểm tra. “Tôi phải nói chuyện với người chủ con mèo này vì nó đã bị đối xử rất tệ, nhìn này—“ ông nói, chỉ vào sườn bên trái, và nhấn xuống chỗ thịt mềm, “Nó quá quý giá để bị đối xử tệ bạc đến vậy.” “Chúng ta có cần đi gặp người chủ vào ngày mai không?” người phụ nữ tỏ vẻ rất quan tâm. Người đàn ông trả lời “Có, chúng ta sẽ đưa nó về, nhân tiện thu phí luôn. Tôi sẽ gọi cho bà ấy và thông báo” Ông nhấc điện thoại rồi điện cho bà Đại sứ. Sự quan tâm duy nhất của bà ta có vẻ chỉ là việc đưa tôi về sẽ tốn thêm một ít franc nữa. Được đảm bảo là sẽ không mất thêm phí, bà đồng ý thanh toán tiền khi nhận tôi về. Như vậy là mọi việc đã định, tôi sẽ trở về vào trưa hôm sau, về lại tay bà Đại sứ.

In the morning the Woman came and carried me off to the room at which I first entered the building. She put me on a table and held me securely while the Man carefully examined me all over. “I shall have to see this cat’s Owner because the Little thing has been badly treated. See—” he said, pointing to my left ribs and pressing where it was still tender, “Something dreadful has happened to her and she is too valuable an animal to be neglected.” “Shall we take a ride in that direction tomorrow and have a word with the Owner?” The Woman seemed to be really interested in me. The Man answered, saying, “Yes, we will take her back, we might be able to collect our fees at the same time. I will telephone her and say that we will deliver the cat and collect the money.” He picked up the phone and eventually spoke to Mme. Diplomat. Her sole concern appeared to be that the ‘cat delivery’ might cost her a few francs more. Assured that it would not, she agreed to pay the bill as soon as I was returned. So it was decided, I should stay until the following afternoon and then should be returned to Mme. Diplomat.

“Đây này, Georges,” người đàn ông gọi, “Mang nó về lại chuồng khỉ, nó sẽ chỉ ở đây đến ngày mai.” Georges, một ông già lưng còng mà tôi chưa gặp trước đây, run rẩy tiến lại gần và nhấc tôi lên với sự nhẹ nhàng đáng ngạc nhiên. Đặt tôi trên vai, ông bước đi. Ông mang tôi vào căn phòng lớn, không hề dừng lại, nên tôi chẳng thể nói lời nào với các bạn khác. Khi đến căn phòng kia, ông đưa tôi vào chuồng khỉ và đóng sập cửa lại sau lưng. Một thoáng sau ông rút ra một mảnh dây rồi chìa trước mặt tôi. “Tội nghiệp nhóc,” ông lầm bầm, “Có vẻ như trước giờ chưa từng có ai chơi với chú mày trong cuộc đời ngắn ngủi của mày!”

“Here, Georges,” called the Man, “Take her back to the monkey cage, she is staying until tomorrow.” Georges, an old bent man whom I had not seen before, shambled over to me and lifted me with surprising care. Placing me on his shoulder he walked away. Into the Big Room he carried me, not stopping so that I could have a word with the others. Into the Other Room, where he entered the Monkey Cage and shut the door behind us. For a few short moments he trailed a piece of string in front of me. “Poor little thing,” he muttered to himself, “It is clear that no one has ever played with you in your short life!”

Tôi lại ở một mình lần nữa; leo lên cành cây dốc và ngắm nhìn khu đất khép kín. Lần này, chẳng có cảm xúc nào dấy lên, tôi biết anh chàng mèo đã có rất nhiều Nữ hoàng, và tôi chỉ là một trong số đó. Những người am hiểu mèo đều gọi mèo đực là Tôm và mèo cái là Nữ hoàng. Cách gọi này chẳng có gì liên quan đến giống, đó chỉ đơn giản là thuật ngữ chung.

Alone once more; I walked up the sloping branch and looked out across the wired enclosure. No emotion stirred within me now, I knew that the Tom had plenty of Queens, and I was just one of a long line. People who know cats always call the males “toms” and the females “queens.” It has nothing to do with pedigree, but is just a generic term.

Một cành cây lẻ loi đung đưa, oằn mình dưới sức nặng đáng kể. Tôi ngắm nhìn anh chàng mèo to lớn búng mình từ cành cây và đáp nhẹ nhàng xuống mặt đất. Rồi lại lao lên thân cây, làm đi làm lại điều tương tự. Tôi say mê ngắm nhìn, rồi sực nhận ra anh ta chỉ đang tập thể dục buổi sáng thôi. Muốn làm gì đó hay hơn, tôi nằm trên cành cây của mình và cào móng cho tới khi chúng sáng bóng như những hạt ngọc trai quanh cổ bà Đại sứ. Rồi lại chán, tôi lăn ra ngủ dưới ánh nắng ấm giữa ngày.

A solitary branch was swaying, bending beneath a considerable weight. As I watched the big Tom sprang from the tree and plummeted to earth. Rushing up the trunk he did the same thing again, and again. I watched in fascination, then it dawned upon me that he was taking his morning exercise! Idly, for want of something better to do, I lay upon my branch and sharpened my claws until they shone like the pearls around Mme. Diplomat’s neck. Then, bored, I slept in the comforting warmth of the noonday sun.

Một lúc lâu sau đó, khi mặt trời không còn chiếu thẳng trên đỉnh đầu mà đã di chuyển để sưởi ấm một vùng khác của nước Pháp, tôi thức dậy bởi một giọng nói êm dịu ngọt ngào. Hé mắt khó nhọc nhìn về hướng cửa sổ xa tầm với, tôi thấy một cô mèo đen già, có lẽ đã sống qua rất nhiều mùa hạ. Cô ấy trông khá đầy đặn, đang ngồi trên bệ cửa sổ làm liếm tai, tôi nảy ý muốn bắt chuyện.

Some time later, when the sun was no longer directly overhead but had moved to warm some other part of France, I was awakened by a soft, motherly voice. Peering with some difficulty at a window almost out of my reach, I saw an old black queen, one who had seen many many summers. She was decidedly plump, and as she sat there on the window ledge, washing her ears, I thought how nice it would be to have a chat.

“A, tỉnh rồi hả.” cô ta nói. “Tôi hy vọng cô thích kỳ nghỉ ở đây, chúng tôi tự hào cung cấp dịch vụ tốt hơn bất kỳ nơi nào trên nước Pháp. Cô ăn ngon miệng chứ?” “Rất ngon, xin cảm ơn” tôi trả lời, “tôi được chăm sóc rất chu đáo. Cho hỏi bà có phải là bà chủ không?”

“Ah!” she said, “so you are awake. I hope you are enjoying your stay here; we pride ourselves that we give better service than anywhere else in France. Are you eating well?” “Yes, thank you,” I replied, “I am being looked after very well. Are you Madame the Proprietress?”

“Không đâu, dù nhiều người cũng nghĩ vậy” Cô mèo trả lời. “Tôi có trách nhiệm phải dạy dỗ mấy cậu mèo mới lớn nghĩa vụ của họ. Tôi cho họ thử sức trước khi được chính thức đưa đi luân chuyển. Việc đó rất quan trọng, là một công việc đòi hỏi sự chính xác.” Chúng tôi ngồi cùng nhau một lúc, đắm trong suy nghĩ riêng. Rồi tôi hỏi “Tên cô là gì?”

“No,” she answered, “Although many people think I am. I have the responsible task of teaching new Stud Toms their duties; I give them a try-out before they are put in general circulation. It is very important, very exacting work.” We sat for a few moments, absorbed in our own thoughts. “What is your name?” I asked.

“Bóng Bơ”, cô mèo trả lời, “Tôi từng rất tròn trịa, và lông tôi bóng như bơ, nhưng đó là chuyện dĩ vãng, khi tôi còn trẻ,” cô nói thêm. “Bây giờ tôi đảm trách nhiều nhiệm vụ – bên cạnh việc mà tôi vừa nói với cô, cô biết đấy. Tôi cũng phải giám sát kho thực phẩm để lũ chuột không làm phiền chúng ta.” Cô ta thư thả ngẫm nghĩ về những trọng trách của mình, rồi nói, “Cô đã ăn thịt ngựa sống bao giờ chưa? Ồ, cô phải ăn thử nó trước khi rời khỏi đây. Nó thật sự rất ngon, thịt ở đây là ngon nhất trong tất cả các loại thịt ngựa có thể mua được. Tôi nghĩ chúng ta sẽ được ăn một ít vào bữa tối đấy, lúc nãy tôi đã thấy ông Georges, người giúp việc, cắt thịt”. Cô ta ngừng lại một chút rồi nói tiếp, với giọng thoả mãn, “Tôi khá chắc sẽ có thịt ngựa cho bữa tối.’ Chúng tôi ngồi yên, đăm chiêu, thỉnh thoảng chải chuốt một chút, rồi cô Bóng Bơ lại nói “Tôi phải đi đây, tôi sẽ đảm bảo rằng cô được chăm sóc tốt – tôi tin là mình đánh hơi thấy ông Georges đang dọn bữa tối!” Rồi cô ta nhảy sang cửa sổ. Trong căn phòng lớn sau lưng, tôi có thể nghe tiếng reo hò. “THỊT NGỰA!” “Cho tôi trước!” “Tôi đói lả rồi Georges, nhanh lên!” Nhưng ông Georges chẳng hề quan tâm, thay vào đấy, ông đi quá căn phòng lớn đến chỗ tôi và cho tôi ăn trước. “Cho chú mày trước, mèo nhỏ!” ông nói. “Mấy đứa khác có thể chờ. Chú mày là đứa ngoan nhất, trật tự nhất nên sẽ được ăn trước.” Tôi gừ gừ tỏ lòng cảm kích với vinh dự này. Ông đặt trước mặt tôi một miếng thịt lớn. Mùi thơm thật tuyệt. Tôi gừ và cọ người vào chân ông. “Chú mày mới chỉ là một cô mèo nhỏ thôi, để ta cắt thịt nhỏ hơn” ông nói. Rồi lịch sự cắt miếng thịt lớn thành từng phần nhỏ cho tôi, chào tôi bằng một câu “Chúc ngon miệng mèo con!” ông đi tiếp để phục vụ những con khác.

“Butterball,” she replied, “I used to be very plump, and my coat used to shine like butter, but that was when I was much younger,” she added. “Now I do a variety of tasks—besides THAT which I told you, you know. I also police the food stores to see that the mice do not disturb us.” She relaxed into contemplation of her duties, and then said, “Have you tried our raw horsemeat yet? Oh, you simply MUST try it before you leave. It is truly delicious, the best horsemeat you can buy anywhere. I believe that we may be having some for supper, I saw Georges—that’s the helper, you know—cutting it up just a few moments ago.” She paused, then said in a satisfied voice, “Yes, I’m SURE there is horsemeat for supper.” We sat and thought, and washed a little, then Madame Butterball said, “Well, I must go, I will see that you get a good helping—I believe I can smell Georges bringing supper now!” She jumped from the window. In the Big Room behind me I could hear shouts and yells. “HORSEMEAT!” “Feed me first!” “I’m starving—quick, Georges!” But Georges took no notice, instead he came through the Big Room and straight in to me, serving ME first. “You first, Little Cat,” he said. “The others can wait. You are the quietest of the lot, so you get served first.” I purred at him to show that I fully appreciated the honour. He put before me a great quantity of meat. It had a wonderful scent. I rubbed against his legs and purred my loudest. “You are only a little cat,” he said, “I will cut it up for you.” He very civilly cut the whole lot into pieces then, with a “Have a good meal, cat!” he went off to attend to the others.

Phần thịt đúng là ngon tuyệt, ngọt và mềm. Một lúc sau tôi ngồi và rửa ráy mặt mũi. Tiếng sột soạt khiến tôi ngẩng lên nhìn, một gương mặt đen với đôi mắt nhấp nháy xuất hiện ngay cửa sổ. “Ngon phải không?”, cô Bóng Bơ hỏi. “Tôi đã bảo cô rồi mà, ở đây chúng tôi phục vụ thịt ngựa ngon nhất. Chưa hết đâu, cô chờ đó, còn món cá cho bữa sáng nữa. Ngon tuyệt, tôi vừa tự thử đấy. Mà thôi muộn rồi, chúc ngủ ngon nhé!” Nói xong cô quay lưng đi mất. Cá ư? Bây giờ khi cái bụng căng, tôi chưa thể nghĩ ngợi gì đến thức ăn. Đây đúng là một sự thay đổi lớn so với ở nhà, ở đó tôi chỉ được cho ăn đồ thừa mà con người để lại, lẫn lộn với mớ sốt cay làm tôi bỏng lưỡi. Còn ở đây, chuột cống cũng được sống đúng kiểu Pháp.

The meat was just wonderful, sweet to the taste, and tender to the tooth. At long last I sat back and washed my face. A scrabbling sound made me look up just as a black face with twinkling eyes appeared at the window. “Good, wasn’t it?” said Mme. Butterball. “What did I tell you? We serve the best horsemeat obtainable here. You wait, though; FISH for breakfast! Lovely stuff, I have just tasted it myself, Oh well, have a good night!” With that she turned and was gone. Fish? I could not think of food now, I was full. This was such a change from the food at home, there I was given scraps which humans had left, messed up stuff with silly sauces which often burned my tongue. Here rats lived in real French style.

Ánh sáng mờ dần khi mặt trời lặn nơi chân trời phía tây. Chim đập cánh bay về tổ, những con quạ già đang réo gọi đồng bọn, huyên náo kể về những sự kiện trong ngày. Bóng tối nhanh chóng phủ xuống, lũ dơi nháo nhào lượn quanh, đập đôi cánh da kin kít mỗi khi chuyển hướng để săn bắt lũ côn trùng ban đêm. Phía trên những rặng dương, mặt trăng mùa hạ bẽn lẽn toả sáng, như thể còn ngần ngại trước việc xuyên qua bóng tối của màn đêm. Tôi thở một hơi thoả mãn rồi lười biếng trèo vào chiếc hộp của mình ngủ thiếp.

The light was fading as the sun set in the Western sky. Birds came flapping home, old ravens calling to their fellows, discussing the events of the day. Soon the dusk deepened, and bats came fluttering by, their leathery wings creaking as they wheeled and turned in pursuit of night insects. Over the tall poplar trees the orange moon peeped shyly, as if hesitant about intruding upon the darkness of the night. With a sigh of contentment, I climbed lazily into my box and fell asleep.

Tôi nằm mơ về những điều mình hằng mong ước. Tôi mơ thấy ai đó thật sự yêu tôi vì chính tôi, như một người bạn. Trái tim tôi luôn tràn ngập yêu thương, yêu thương bị dồn nén bởi không ai ở nhà hiểu được điều mà một cô mèo nhỏ mong ước và khao khát. Giờ đây khi đã là một cô mèo già, tôi được vây quanh bởi tình yêu và tôi sẵn lòng cho đi hết mình để đáp trả. Chúng tôi cũng có những khó khăn và thiếu thốn, nhưng đối với tôi, đây là cuộc sống hoàn hảo, nơi tôi được sống với một gia đình và được thương yêu như một con người.

I dreamed, and all my longings came to the surface. I dreamed that someone wanted me just for myself, just for companionship. My heart was full of love, love which had to be suppressed because no one at my home knew of a little girl cat’s longings and desires. Now, as an old woman cat, I am surrounded with love and I give my all in return. We know hardship, now, and shortages, but to me this is THE perfect life, where I am one with the family and loved as a real person.

Đêm trôi qua. Tôi thấy bồn chồn và chán ngán khi tự hỏi mình sẽ ra sao khi phải quay về nhà. Liệu những ngày tháng khó nhọc có còn tiếp diễn? Tôi có được ngủ trong một chiếc giường rơm thay vì chồng báo ẩm cũ? Ngay sau đó thì trời sáng. Một chú chó rên rỉ sủa trong Phòng Lớn. “Cho tôi ra, cho tôi ra.” cậu ta nói đi nói lại. “Cho tôi ra!” Gần đó, một chú chim càu nhàu với bạn đời vì bữa sáng chậm trễ. Dần dần những âm thanh thường nhật của ngày mới trở nên rõ ràng hơn. Tiếng chuông tháp nhà thờ kêu vang, gọi con người đi lễ. “Sau lễ em sẽ vào thị trấn để mua áo mới, anh cho em đi nhờ nhé?” một giọng nữ hỏi. Họ đi thoắt qua khiến tôi không kịp nghe tiếng người đàn ông trả lời. Tiếng xô xẻng loảng xoảng nhắc tôi nhớ rằng sắp đến giờ cho bữa sáng. Từ khu vực giăng lưới, chàng mèo đẹp trai cất giọng và hát đón chào ngày mới.

The night passed. I was restless and ill at ease wondering about going home. Would it be hardship again? Would I have a bed of straw instead of old, damp newspapers? I wondered. The next thing I knew it was daylight. A dog was barking mournfully in the Big Room. “I want out, I want out,” he was saying, over and over. “I want out!” Nearby a bird was telling off her mate for being late with the breakfast. Gradually the usual sounds of the day came to life. The bell in a church tower clanged as its brazen voice called the humans to do some sort of service. “After Mass I am going to the town to get a new blouse, will you give me a lift?” asked a female voice. They passed from my hearing before I could catch the man’s reply. The clattering of buckets reminded me that it would soon be time for breakfast. From the netted enclosure the Handsome Tom lifted up his voice in a song of praise to greet the new day.

Người phụ nữ đến, mang theo bữa sáng của tôi. “Chào miu,” bà nói “ăn ngon nhé vì trưa này mày sẽ về nhà rồi.” Tôi gừ và cọ vào người bà để tỏ ý hiểu. Bà đang mặc đồ lót mới và tinh thần có vẻ rất tốt. Tôi thường tự cười một mình khi nghĩ về việc mèo nhìn nhận con người. Thông thường thì bọn tôi có thể đoán được tâm trạng một người thông qua đồ lót của họ. Góc nhìn của chúng tôi rất khác, bạn biết đấy.

The Woman came with my breakfast. “Hello, cat,” she said, “Have a good meal because you are going home this afternoon.” I purred and rubbed against her to show that I understood. She was wearing new, frilly underthings, and she appeared to be in the best of spirits. I often smile to myself when I think of how we cats see people! Often we can tell a person’s mood by their underclothes. Our viewpoint is different, you see.

Cá rất ngon, nhưng nó được trộn cùng với cái gì đấy, như kiểu ngũ cốc lúa mạch, mà tôi phải gạt ra. “Ngon phải không?” một giọng cất lên từ phía cửa sổ.

The fish was very good, but it was covered with some meal, or wheatey stuff, which I had to scrape off. “Good, isn’t it?” said a voice from the window.

“Chào buổi sáng, cô Bóng Bơ.” tôi trả lời. “Vâng, món này rất ngon, nhưng nó được phủ cái gì vậy?” cô Bóng Bơ phá lên cười. “Ồ!” cô ta cảm thán, “Cô quê quá! Ở đây bọn tôi luôn luôn – luôn luôn – ăn ngũ cốc vào bữa sáng để có đủ vitamins.” “Nhưng sao tôi chưa từng ăn món này trước đây?” tôi vặn vẹo. “Bởi vì cô phải điều trị nên cô ăn nó dưới dạng lỏng.” Cô Bóng Bơ thở dài, “Giờ tôi phải đi đây, việc thì nhiều mà thì giờ thì ít. Tôi sẽ cố gắng gặp cô trước khi cô rời đi.” Trước khi tôi kịp trả lời, cô ta đã nhảy ra khỏi cửa, và tôi có thể nghe tiếng cô ta sột soạt trong bụi cây.

“Good morning, Madame Butterball,” I replied. “Yes, this is very good, but what is this covering to it?” Madame Butterball laughed good-naturedly. “Oh!” she exclaimed, “You must be a country girl! Here we ALWAYS—but ALWAYS—have cereals in the morning so that we get our vitamins.” “But why did I not have them before?” I persisted. “Because you were under treatment and had them in liquid form.” Madame Butterball sighed, “I must go now, there is always so much to do, and so little time. I will try to see you before you leave.” Before I could reply she had jumped off the window, and I could hear her rustling through the bushes.

Có tiếng tranh luận gì đấy từ Phòng Lớn. “Yeh,” một chú chó Mỹ nói, “Rồi tôi nói với nó, ta không muốn tụi bay làm ồn ào quanh cột đèn nữa biết chưa! Tụi bay suốt ngày rình rập xung quanh để xem có đánh hơi được gì không.” Tong Fa, một chú mèo Xiêm đã đến vào tối muộn hôm qua, đang nói chuyện với Chawa. “Kể cho tôi nghe đi, chúng ta có được phép đi thị sát mặt đất quanh đây không?” Tôi cuộn mình và ngủ thiếp, cuộc tranh luận này làm tôi đau đầu.

There was a confused babble of talk from the Big Room. “Yeh,” said the American dog, “So I sez to him, I don’t want you nosin’ around MY lamp post, see! You allus snoops round to see what you can sniff out.” Tong Fa, a Siamese Cat who came in late in the evening, was talking to Chawa. “Tell me, Madame, are we not permitted to investigate the grounds here?” I curled up and had a sleep, all this talk was making my head ache.

“Chúng ta bỏ nó vào giỏ chứ?” tôi thức giấc. Người đàn ông và người phụ nữ tiến vào phòng từ một cửa hông. “Giỏ à?” người phụ nữ hỏi. “Không, không cần phải cho vào giỏ. Tôi sẽ ôm nó trên lòng.” Họ đi tiếp đến cửa sổ và đứng nói chuyện. “Con Tong Fa đó,” người phụ nữ ngân nga, “thật đáng tiếc khi phải cho nó đi ngủ. Chúng ta không có cách gì khác sao?” Người đàn ông cử động một cách không thoải mái và gãi gãi cằm. “Chúng ta làm được gì bây giờ? Nó đã quá già và gần như mù. Người chủ không có thời gian cho nó, chúng ta chẳng làm gì được?” Có một hồi im lặng khá lâu. “Tôi không thích làm thế”, người phụ nữ nói, “đấy là mưu sát!” Người đàn ông vẫn giữ im lặng. Tôi thu mình càng nhỏ càng tốt trong một góc chuồng. Già và mù? Như vậy nghĩa là án tử? Chẳng có chút lưu luyến nào cho chừng đó năm tận tuỵ và yêu thương, giết đi những con vật già không còn có khả năng tự vệ. Rồi hai người họ cùng nhau đi vào phòng và nhẹ nhàng nhấc Tong Fa già nua ra khỏi chuồng.

“Shall we put her in a basket?” I awoke with a start. The Man and the Woman entered my room by a side door. “Basket?” asked the Woman, “No, SHE does not need putting in a basket, I will have her on my lap.” They walked to the window and stood talking. “That Tong Fa,” mused the Woman, “It is a shame to put him to sleep. Can’t we do something about it” The Man shifted uncomfortably and rubbed his chin. “What CAN we do? The cat is old and nearly blind. The Owner has no time for him. What CAN we do?” There was silence for a long time. “I don’t like it,” said the Woman, “it’s murder!” The Man remained silent. I made myself as small as possible in a corner of the cage. Old and blind? Was that grounds for a death sentence? No thought for years of devotion and love, kill the Old Ones off if they could not fend for themselves. Together the Man and the Woman walked into the Big Room and gently took old Tong Fa from his cage.

Buổi sáng dài lê thê. Tôi ủ rũ trong suy nghĩ. Điều gì sẽ đến khi tôi già? Cây táo đã nói rằng tôi sẽ hạnh phúc, nhưng khi còn trẻ, sự chờ đợi là một quãng thời gian dài không hồi kết. Ông Georges đến. “Mèo nhỏ, có ít thịt ngựa này. Ăn đi vì mày sắp về nhà rồi.” Tôi gừ và cọ vào người ông, và ông cúi người xoa đầu tôi. Tôi vừa kết thúc bữa ăn và đi vệ sinh thì người phụ nữ đến tìm. “Đi nào Fifi!”, bà nói, “Đi về với bà Đại sứ phù thủy nào.” Bà ẵm tôi lên và mang tôi đi qua cửa bên. Cô Bóng Bơ đang đứng chờ sẵn. “Tạm biệt Feef”, cô la to, “Quay lại gặp bọn tôi sớm nhé. “Chào cô Bóng Bơ” tôi đáp lời. “Rất cảm ơn sự hiếu khách của cô.”

The morning dragged on. I had somber thoughts. What would happen to me when I was old? Apple Tree had told me that I would have happiness, but when one is young and inexperienced waiting seems an age without end. Old Georges came in. “Here is a little horsemeat, small cat. Eat it up because you are going home soon.” I purred and rubbed against him, and he stooped to stroke my head. Barely had I finished eating, and doing my toilet, when the Woman came for me. “Here we go, Fifi!” she exclaimed, “Home to Mme. Diplomat (the old witch).” She picked me up and carried me through the side door. Madame Butterball was waiting. “Goodbye, Feef,” she yelled, “Come and see us again soon.” “Goodbye, Madame Butterball,” I replied, “Many thanks for your hospitality.”

Người phụ nữ đi về phía người đàn ông đang đứng đợi cạnh một chiếc ô tô to. Bà leo vào, kiểm tra hết các cửa kính đã đóng chặt, sau đó người đàn ông chui vào xe nổ máy. Chúng tôi lái đi và rẽ vào con đường đi về nhà.

The Woman walked on to where the Man was waiting beside a big old car. She got in, made sure the windows were almost shut, then the Man got in and started the engine. We drove off and turned on to the road leading to my home.

  • Người dịch: Phí Bích Thuận
  • Biên tập: Tô Phương Trang
  • Tổng biên tập: Trung tâm VMC

Có thể bạn quan tâm

Xem tất cả

Đăng ký hướng dẫn Thiền cơ bản

Loading...
Logo-vmc
TRUNG TÂM THIỀN ĐỊNH:
- Số 116 Trần Vỹ, Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội
Chị Khánh:  

‎0981956875

Chị Thủy:  

‎0981956820

Facebook:

facebook.com/congdongthienVietNam

TIN TỨC NỔI BẬT

© 2024 Copyright by IT AUM