Loading...
Cộng đồng thiền Việt Nam

Chi hội phát triển cộng đồng thiền Việt Nam

Cộng đồng thiền Việt Nam

image-alt-text

Chương 1: Ba kiếp sống– Lobsang Rampa

Chương 1: Ba kiếp sống– Lobsang Rampa

08:52 28/06/2021

BA KIẾP SỐNG

(Ấn bản: 22/02/2014)

Thắp lên một ngọn nến tốt hơn là nguyền rủa đêm đen.

Lời mở đầu

Foreword

Quyển sách này KHÔNG được giới thiệu đến bạn như một tiểu thuyết viễn tưởng bởi một lý do rất đặc biệt; nó KHÔNG phải là viễn tưởng.

Đương nhiên, chúng ta có thể dễ dàng đồng ý với nhau rằng một số ngôn từ trong sách về cuộc sống trên thế giới này nghe rất “mỹ từ”, nhưng hãy chấp nhận tuyên bố của tôi rằng MỌI THỨ về cuộc sống ở “Thế giới bên kia” là hoàn toàn có thật.

This book is NOT presented to you as fiction for a very special reason; it is NOT fiction!

Of course, we can readily agree that some of the words in the book about life on this world are ‘artistic license’, but accept my statement that EVERYTHING about the life on ‘The Other Side’ is definitely true.

Một số người được sinh ra với tài năng âm nhạc thiên bẩm; một số người lại có tài năng nghệ thuật vĩ đại, họ vẽ và làm cả thế giới say đắm. Một số người khác lại có thể được ban tặng những năng khiếu vượt trội nhờ sự chăm chỉ làm việc và tận tụy trong học tập của họ.

Tôi có rất ít trải nghiệm vật chất trong thế giới này, không xe hơi, không TV, không có cái này và không có cái kia, và suốt 24 giờ một ngày, tôi gắn chặt với chiếc giường, bởi một lẽ, tôi bị liệt hai chân. Điều này đã cho tôi cơ hội lớn để có thể phát triển tài năng và khả năng trời phú từ khi mới sinh ra.

Some people are born with great musical talent; some people are born with great artistic talent, they can paint and captivate the world. Other people may be highly gifted through their own hard work and assiduous devotion to study.

I have little in the material side of this world no car; no television, no this and no that and for twenty-four hours a day I am confined to bed because, for one thing, I am paraplegic no use in the legs. This has given me great opportunity for increasing talents or abilities which were granted to me at birth.

Tôi có thể làm được mọi điều mà tôi đã viết trong những trang sách này, trừ việc đi lại! Tôi có khả năng du hành thể vía và do sự nghiên cứu của tôi, tôi cho rằng, nhờ vào cái tật đặc biệt của mình mà tôi có thể du hành thể vía đến các Cõi Giới khác. Những nhân vật trong quyển sách này là những người đã sống và chết đi trên thế giới này, và nhờ vào cơ duyên đặc biệt mà tôi có thể theo gót họ trong những “Chuyến du hành đến Vô Định”.

Mọi điều trong quyển sách này về Hậu Kiếp đều cực kỳ chân thực, do đó tôi sẽ không gọi đây là một cuốn tiểu thuyết Viễn Tưởng.

I can do everything I write about in any of my books except walk! I have the ability to do astral travel and because of my studies and, I suppose, because of a peculiar quirk in my make-up, I am able to astral travel to other planes of existence. The characters in this book are people who have lived and died on this world, and because of special provisions I have been able to follow their ‘Flights into the Unknown’.

Everything in this book about the After Life is utterly true, therefore I will not label the book as fiction.

 

Lobsang Rampa

Chương 1

Chapter 1

‘Ông già kia là ai vậy?’

Leonides Manuel Molygruber chậm rãi đứng thẳng lên và nhìn người vừa đặt câu hỏi. “Cái gì?’ lão hỏi lại.

‘Tôi hỏi ông đấy, ông già đằng kia là ai vậy?’

‘Who is that old geezer?’

Leonides Manuel Molygruber slowly straightened up and looked at the questioner. ‘Eh?’ he said.

‘I asked you, who is that old geezer?’

Molygruber nhìn xuống đường, nơi có một chiếc xe lăn chạy điện vừa đi vào trong tòa nhà. “Ồ, ông ấy à!’ Molygruber vừa nói vừa khạc một bãi rất khéo trúng ngay lên giày một người đang vừa đi ngang qua. ‘Ông ấy sống ở quanh đây, viết lách gì đấy, viết mấy chuyện linh tinh kỳ quái liên quan đến hồn ma, và ông ấy viết rất nhiều về sự sống sau khi chết.’ Lão khịt mũi cao ngạo rồi nói tiếp, ‘Mấy thứ rác rưởi đấy, chả có gì ra hồn cả. Khi người ta chết rồi thì là chết rồi, tôi luôn luôn nói thế. Lúc  chết, người ta mời cha xứ đến, và họ nói anh phải đọc một hai câu kinh và rồi có lẽ nếu anh đọc đúng thì anh sẽ được cứu rỗi và lên Thiên Đàng, nếu không thì anh sẽ phải xuống Địa Ngục. Rồi anh sẽ có đội kèn trống Cứu Thế Quân đi theo, hò la inh ỏi như một đêm nhạc tối thứ Sáu, rồi mấy gã như tôi này, sẽ phải đẩy xe cút kít đi theo sau và dọn dẹp đống tàn dư của họ. Ở đó họ la hét và đánh trống lục lạc hay anh gọi là cái gì cũng được, xô đẩy chúng trước mũi những người đi đường, hét lên xin tiền để làm việc phụng sự Chúa.’ Lão nhìn quanh rồi trề môi thổi lên mũi. Đoạn, lão quay sang kẻ vừa hỏi lần nữa và nói ‘Chúa à? Ông ấy chưa từng làm gì cho tôi cả, chưa bao giờ, bổn phận của tôi là ở nơi vỉa hè này, nơi tôi có trách nhiệm phải giữ sạch sẽ, tôi cứ quét, quét và quét, và rồi lấy 2 tấm bảng xúc rác đổ vào xe cút kít của mình, và chúng tôi thường xuyên có xe ô tô đi cùng, chúng tôi gọi là xe ô tô nhưng thực ra nó chỉ là xe tải, anh biết đấy, và họ đến mang chiếc xe cút kít của tôi, dựng đứng nó lên cùng với rác rưởi ở trong đó và mang tất cả chúng đi, và tôi sẽ phải bắt đầu công việc từ đầu. Đây là một việc không bao giờ kết thúc, hết ngày này sang ngày khác, không ngừng nghỉ. Anh không biết đâu, có lúc có ông Hội đồng nào đấy đến đây trong chiếc Cadillac to bóng loáng, và nếu bọn tôi không đang cúi xuống quét liên tục, thì tôi đoán chắc là họ sẽ nói với ai đó trong Hội đồng và người đó sẽ quạt sếp của tôi, rồi Sếp tôi sẽ xuống đây và quát tôi. Ông ấy bảo tôi nếu tôi không làm gì cũng không sao, người trả thuế sẽ chẳng thể biết đâu, nhưng phải làm ra vẻ đang làm việc, phải cúi thấp người, diễn như thật.’

Molygruber looked down the road to where an electrically propelled wheelchair was just going into a building. ‘Oh him!’ said Molygruber expertly expectorating upon the shoe of a passing man. ‘He’s a guy that lives around here, writes books or something, does a lot of stuff about ghosts and funny things, and then he does a lot of writing about people being alive when they’re dead.’ He snorted with superior knowledge and said, ‘That’s all rot you know, not a bit of sense in that rubbish. When you’re dead you’re dead, that’s what I always say. You get them there priests come along and they say you’ve got to do a prayer or two and then perhaps if you say the right words you’ll be saved and you’ll go to Heaven, and if you don’t you’ll go to Hell. Then you get the Salvation Army come along, they make a hell of a racket of a Friday night, and then fellows the likes of me have got to come along with our little barrows and sweep up after them. They’re there yelling and banging their tambourines or whatever you call the things, shoving them under the noses of passers-by, screeching out they want money for the work of God.’ He looked about him and blew his nose on the sidewalk. Then he turned to his questioner again and said, ‘God? He never done nothing for me never I got my own bit of the sidewalk here which I’ve got to keep clean, I brushes and I brushes and I brushes, and then I takes two boards and I picks up the stuff and I puts it in me barrow, and every so often we get a car come along we call ’em cars but they’re really trucks, you know and they comes and they takes me barrow and they upends it with all the stuff inside and all the stuff is taken away and I’ve got to start all over again. It’s a never ending job, day after day, no stopping. You never know what Council man is coming by in his big flash Cadillac and if we ain’t bent over our brooms all the time, well, I guess they go along to somebody in the Council and that somebody makes a racket with my Boss, and my Boss comes down and makes a racket on me. He tells me never mind if I don’t do any work, the tax payer will never know, but make a show of working, you get your back down to it.’

Molygruber lại nhìn quanh và định quơ chổi, lão quẹt mũi vào tay áo với tiếng xì mũi kinh tởm rồi nói ‘Hãy bảo là anh đang hỏi giờ tôi, nếu có ai đó hỏi anh đang nói gì với người lao công ở đó, nhưng điều tôi muốn nói là thế này, không có Chúa Trời nào xuống đây và giúp tôi quét dọn cả, tôi đến gãy lưng vì suốt cả ngày cúi người quét dọn những thứ bẩn thỉu mà mọi người vứt khắp nơi. Anh sẽ không bao giờ tin rằng tôi quét đi những thứ gì khi làm việc đâu, quần tất và những thứ ở trong quần tất đấy, anh sẽ chẳng bao giờ tin nổi tôi thấy gì ở đống rác trên mấy góc phố kia. Nhưng như tôi đã nói đấy, chẳng có Chúa Trời nào sẽ đến và quét hộ tôi, cũng chẳng nhặt cái rác nào trên đường giúp tôi. Tất cả chỉ là cái thân tội nghiệp của tôi tự phải làm vì tôi chẳng thể tìm nổi một công việc nào khá hơn thế này.’

Molygruber looked about him a bit more and gave a tentative push at his broom, then he wiped his nose with a horrid sound on his right sleeve and said, ‘You’re asking the time, mister, if anybody says what are you saying to that there cleaner, but what I’m saying is this; no God ever came down here and done me brushing for me, me wot’s having my back breaking with bending over all the daylong and pushing all the dirt that people drops around. You’d never believe what I get down in my patch, pantyhose and other things wot goes in pantyhose’s everything you’d never believe what I finds on these street corners. But, as I was saying, no God ever came down here and pushed my brushes for me, never picked up any of the dirt on the roads for me. It’s all me poor honest self wot can’t get a better job that’s got to do it.’

Người đàn ông đặt câu hỏi liếc nhìn Molygruber và nói ‘Nghe bi quan nhỉ? Tôi cá ông là người vô thần’ ‘Vô thần á?’, Molygruber hỏi lại. ‘Không, tôi không phải là người vô thần đâu, mẹ tôi là người Tây Ban Nha, cha tôi người Nga, tôi được sinh ra ở Toronto. Tôi không biết cái gì đã làm tôi thành ra thế này nhưng tôi không phải là người vô thần, tôi cũng chẳng biết nó ở đâu nữa.’

The man making the enquiry looked sideways at Molygruber and said, ‘Bit of a pessimist, aren’t you? Bet you’re an atheist!’ ‘Atheist?’ said Molygruber. ‘No, I’m no atheist, me mother was Spanish, me father was Russian, and I was born in Toronto. I dunno what that makes me but I still ain’t no atheist, don’t know where the place is anyhow.’

Người hỏi cười và bảo ‘Người vô thần là người không tin vào tôn giáo, không đặt niềm tin vào bất kỳ điều gì trừ hiện tại. Bây giờ anh ta ở đây, và anh ta chết đi, rồi anh ta đi đâu? Không ai biết được, nhưng một người vô thần tin rằng khi anh ta chết đi, thì thân xác anh ta sẽ chỉ như thứ rác rưởi mà anh ta đang hót lên ở kia thôi. Đó là người vô thần!’

The questioner laughed and said, ‘An atheist is a man who doesn’t believe in a religion, doesn’t believe in anything except the present. He’s here now, and he dies, and he’s gone where? No one knows but the atheist believes that when he dies his body is just like the garbage you pick up there. That’s an atheist!’

Molygruber cười khúc khích và trả lời ‘Ừ thế đấy, tôi là thế đấy. Thế là tôi lại biết thêm được một điều mới về bản thân mình bây giờ, tôi là người Vô Thần! Khi nào những gã làm cùng với tôi hỏi tôi là gì, tôi có thể trả lời họ, không, tôi không phải người Nga, không phải người Tây Ban Nha, tôi là người Vô Thần. Và rồi bọn họ sẽ cười và bỏ đi, họ sẽ nghĩ rằng lão già Molygruber này cũng có chút hóm hỉnh đấy.’

Molygruber chuckled and replied, ‘That’s ‘im! That’s me! I got a new thing wot I am now, I’m an atheist and when the guys wot works with me asks me what I am I can always tell ’em, no, I’m no Russian, I’m no Spaniard, I’m an Atheist. And then they’ll go away chuckling, they’ll think old Molygruber got a bit of wit left in him after all.’

Người đặt câu hỏi bỏ đi. Mất thời gian để nói chuyện với những gã gàn dở như thế này làm gì, anh ta nghĩ. Thật lạ là những lao công hay công nhân quét đường này như họ bây giờ tự gọi mình như vậy, họ dốt nát, nhưng họ thực sự là một nguồn kiến thức về những con người đang sống quanh đây.

The questioner moved on. What’s the point of wasting time talking to an old creep like this, he thought. Strange how all these street cleaners street orderlies they call themselves now are so ignorant, and yet they really are a fount of knowledge about people who live in the district.

Anh ta đột ngột dừng lại và lấy tay vỗ vào trán. ‘Ôi mình ngốc thật!’ anh ta nói, ‘Mình đang cố tìm hiểu về ông ấy cơ mà.’ Rồi anh ta quay lại nơi mà ông già Molygruber vẫn đang đứng trầm tư, có vẻ như đang cố bắt chước bức tượng thần Vệ Nữ, ngoại trừ sự thật rằng lão không có thân hình chuẩn như thế, không giống giới tính và cũng khác cả các phụ kiện. Thực chất thì tạo dáng với một cây chổi không bao giờ là đẹp cả. Người đặt câu hỏi tiến về phía lão rồi nói “Này ông, ông làm việc quanh đây, ông biết về mọi người sống ở đây, thế còn người này thì sao?’ Anh ta chìa tờ 5 đô la ra trước mặt lão rồi nói, ‘Tôi muốn biết về người đàn ông ngồi xe lăn này.’ Molygruber thò tay giật phắt tờ 5 đô la từ tay người hỏi nhanh đến mức anh ta chưa kịp nhận ra có chuyện gì. ‘Biết gì về ông già đấy không hả’ Molygruber hỏi lại, ‘Chắc chắn biết chứ. Ông ấy sống đâu đó dưới kia, ông ấy hay đi trong cái hẻm đó, đi xuôi xuống rồi rẽ phải, đó là chỗ ông ấy sống khoảng 2 năm rồi đấy. Tôi không thường gặp ông ta. Ông ấy bệnh giai đoạn cuối hay gì đấy, nhưng họ nói là ông ấy không sống lâu nữa đâu. Ông ấy viết sách, ông ấy tên là Rampa, những thứ ông ấy viết đơn giản chỉ là cuộc sống kỳ quặc sau cái chết. Ông ấy không phải là người vô thần, nhưng nghe nói có nhiều người đọc sách của ông ấy lắm, anh có thể thấy cả tủ trưng bày sách của ông ấy trong hiệu sách dưới kia kìa, họ bán được nhiều lắm. Thật buồn cười là sao có người kiếm tiền dễ thật, chỉ việc viết ra vài chữ, còn tôi thì phải quét rác bở hơi tai, nhỉ?’

He stopped suddenly and struck himself on the forehead with his open hand. ‘Fool that I am!’ he said, ‘I was trying to find out about that fellow.’ So he turned and went back to where old Molygruber was still standing in contemplation, apparently trying to emulate the statue of Venus except that he hadn’t the right form, the right sex, or the right implements. A broom wasn’t a very good thing to pose with, after all. The questioner went up to him and said, ‘Say, you work round here, you know about people who live around here, how about this?’ He showed him a five dollar bill, ‘I want to know about the fellow in the wheelchair,’ he said. Molygruber’s hand shot out and grabbed the five dollar bill and snatched it from the questioner’s hand almost before he knew it was gone. ‘Know about that old fellow’ asked Molygruber. ‘Why sure I know about him. He lives down there somewhere, he goes in that alleyway and then he goes down and then he turns right, that’s where he lives, been living there about two years now. Don’t see him about much. He’s got an illness to his terminals or something, but they say he ain’t going to live much longer. He writes books, he’s called Rampa, and the things he writes about, they’re just plain ridiculous life after death. He’s no atheist. But they do say a lot of people reads his stuff, you can see a whole display of his books in that store down there, they sells a lot of them. Funny how some people makes money so easy, just by writing out a few words, and I’ve got to sweat me guts out pushing this broom, ain’t it?’

Người hỏi lại tiếp lời, ‘Vậy ông có thể tìm được chỗ ông ấy sống không? Ông nói rằng ông ấy sống trong toà nhà kia, nhưng hãy nói cho tôi chính xác là chỗ nào? Nói cho tôi số căn hộ đi, mai tôi sẽ trở lại, và nếu ông tìm được số căn hộ và biết được lúc nào ông ấy thường ra ngoài thì tôi sẽ cho ông 10 đô la.’

The questioner said, ‘Can you find out just where he lives? He lives in that apartment building you say, but tell me find out for me WHERE DOES HE LIVE? You tell me the apartment number and I’ll come back here tomorrow and if you’ve got the apartment number and you’ve got what time he comes out about then I’ll give you ten dollars.’

Molygruber lầm bầm một chút, bỏ mũ, gãi đầu và kéo dái tai. Bạn bè lão có thể sẽ kháo nhau rằng chưa từng thấy lão làm một việc như vậy bao giờ, Molygruber chỉ làm thế nếu như phải đắn đo suy nghĩ gì đấy, và thường thì lão chả nghĩ gì nhiều. Nhưng lão có thể để chút tâm trí vào việc nghĩ xem liệu 10 đô la này có dễ lấy quá không. Thế rồi lão đập tay rồi nói “Được chúng ta bắt tay thỏa thuận nhé, mai anh đến đây vào đúng giờ này và tôi sẽ nói cho anh biết số nhà của ông ta và thời gian nào ông ấy đi ra ngoài nếu như ông ta không ra sớm hơn. Tôi có một người bạn quen biết với người phục vụ ở đó, họ thường đóng rác cùng nhau. Anh thấy đấy, rác thải ra trong những thùng to màu xanh ấy. Được rồi, bạn tôi sẽ tìm hiểu giúp tôi, và nếu anh bất chợt muốn biết gì thêm thì tôi có thể cung cấp thêm thông tin cho anh.’

Molygruber ruminated a bit, took off his hat and scratched his head and then pulled at the lobes of his ears. His friends would say they had never seen him do that before but Molygruber only did it when he was thinking and, as his friends would tell him, he never thought much. But he could put in a bit of effort at thinking if there was ten dollars to be made for so little work. Then he spat and said, ‘Mister, you got a deal, you shake hands on it and you come here tomorrow at this very same time and I’ll tell you the number of where he lives and when he comes out if he don’t come out earlier. But I got a friend wot knows the caretaker there, they packs up the garbage together. The garbage comes out in those big blue things, you see. Well, my friend he’ll find out for me and if you like to spring a bit more I could find out some more things for you.’

Người hỏi hơi nhướn mày và di di chân, rồi nói,  ‘À, ông ấy có bỏ rác không, những thứ như thư từ chẳng hạn?’

‘Ồ không đâu’, Molygruber nói. ‘Tôi biết rõ điều này bởi vì ông ấy là người duy nhất trong khu này có cái máy cắt nát hết giấy tờ. Ông ấy học điều đó khi ở Ireland. Vài gã nhà báo nào đấy đã lấy được một số tài liệu của ông ấy, và ông ấy là dạng người, như người ta nói, không mắc phải một sai lầm hai lần. Ông ấy có máy huỷ tài liệu, giấy được cắt thành từng dải băng như bông giấy chưa bị cắt vụn, tôi tận mắt thấy chúng trong những túi rác màu xanh lá. Tôi không thể tìm được rác nào cho anh đâu bởi vì họ rất cẩn thận, họ không để lại cái gì và không bao giờ để lọt ra cái gì để có thể truy vết đâu. ‘Thôi được rồi’, người hỏi nói. ‘Tôi sẽ có mặt ở đây tầm giờ này, và như đã hứa, tôi sẽ đưa ông 10 đô la nếu ông có thể cho tôi biết số căn hộ và thời gian ông ấy ra ngoài. Cũng mất khá nhiều thời gian của ông rồi’. Nói xong anh ta nhấc hờ cánh tay vẫy chào rồi đi tiếp. Molygruber đứng bất động, nếu có ai thấy lão lúc này hẳn sẽ nghĩ lão là một pho tượng, liên tục nghĩ xem mình có thể mua được bao nhiêu vại bia với 10 đô la. Rồi lão chậm rãi vừa đẩy chiếc xe cút kít vừa vờ như đang đang quét rác trên đường.

The questioner raised his eyebrows a bit and shuffled his feet, and then said, ‘Well, does he send out garbage, letters, things like that?’

‘Oh no, oh no,’ said Molygruber. ‘I know this, he’s the only one in this street that got a thing wot cuts up all his papers. He learned that trick away in Ireland. Some of those press people got hold of some papers of his and he’s a guy, so they say, who doesn’t make the same mistake twice. He got a thing wot turns out letters which looks like strips of confetti stuff which hasn’t been cut off in pieces, comes out  in ribbons, I’ve seen it meself in green garbage bags. Can’t find any garbage for you because they’re very careful up there, they don’t leave nothing to chance and they never turn out a thing which can be traced.’ ‘Okay then,’ said the questioner. ‘I’ll be around here tomorrow at the selfsame time and, as promised, I’ll give you ten dollars if you can give me the apartment number and about what time he can be intercepted when he comes out. So long!’ And with that the questioner half lifted his hand in greeting and moved on his way. Molygruber stood still, so still that one would have thought he was indeed a statue, thinking it all over, trying to work out how many pints he would get for ten dollars. And then slowly he shuffled along pushing his old barrow and making a pretence of brushing up rubbish from the road as he went.

Đột nhiên một người đàn ông mặc áo chùng linh mục xuất hiện ở góc đường và suýt ngã vào xe cút kít của lão Molygruber. ‘Này, này!’ Molygruber cáu kỉnh kêu lên. ‘Đừng làm đổ xe rác của tôi chứ, tôi mất cả buổi sáng để dọn dẹp được đống này đấy.’ Người kia phủi các vết bẩn trên áo khoác rồi nhìn xuống lão Molygruber và nói ‘À, người đàn ông tốt bụng của tôi đây rồi, ông đúng là người có thể giúp được ta. Ta là linh mục mới về phụ trách ở khu này và ta muốn đi thăm viếng quanh đây. Ông có thể giới thiệu giúp ta những người nào mới đến trong khu vực này không?

Just then a man in black clerical dress swung around the corner and almost fell over old Molygruber’s barrow. ‘Hey there, hey there!’ exclaimed Molygruber crossly. ‘Don’t you go and upset all my garbage, I’ve spent all the morning loading it in that barrow of mine.’ The parson brushed off some specks from his jacket and looked down at old Molygruber. ‘Ah, my good man,’ he said. ‘You are the very man who can help me. I am the new incumbent to this district and I want to go on visitations. Can you tell me of new people in this area?’

Lão Molygruber đưa ngón tay kẹp mũi, cúi người rồi xì mũi thật mạnh, suýt thì rơi trúng vào chân vị linh mục, ông ta có vẻ kinh ngạc và tỏ ra kinh tởm.

‘Thăm viếng ấy hả?’ lão lao công già hỏi. ‘Tôi luôn nghĩ chỉ có quỷ mới đi thăm viếng. Mỗi lần hắn ghé thăm, chúng ta sẽ nổi mụn nhọt, hay là kiểu như chúng ta vừa lấy hết tiền mua một vại bia thì có người làm đổ nó vậy. Tôi nghĩ thăm viếng là như vậy chứ.’

Old Molygruber put his finger and his thumb to his nostrils, bent over, and did a hearty blow, clearing his nostrils and just missing the feet of the parson who looked shocked and disgusted.

‘Visitations is it?’ said the old garbage man. ‘I always thought that visitations were what the devil did. He visits us with visitations and then we comes out in pimples and boils and all that, or we’ve just paid our last cent for a pint and somebody knocks it out of our hands. That’s what I thought visitations was.’

Vị linh mục nhìn lão từ trên xuống dưới với ánh mắt thực sự khó chịu. ‘Bạn của tôi ơi, bạn của tôi ơi’ ông ta nói, ‘Ta đoán là ông đã không đến nhà thờ hành lễ rất lâu rồi, vì chỉ mình ông không tôn kính những đạo hữu trong giới thầy tu.’ Lão Molygruber nhìn thẳng vào mắt ông ta và nói ‘Không, thưa ông, tôi không phải là con ngoan của Chúa. Tôi vừa được nghe nói rõ về bản thân mình, tôi là người vô thần, và tôi là như thế đấy’. Rồi lão cười khẩy vẻ đe doạ khi nói về điều đó. Vị linh mục đứng đổi chân, nhìn quanh lão rồi nói ‘Nhưng này, con người tốt bụng của tôi ơi, ông phải có tôn giáo, ông phải tin vào Chúa. Ông hãy đến nhà thờ vào Chủ Nhật đi và tôi sẽ có một bài giảng đặc biệt dành riêng cho ông, một người anh em kém may mắn khi phải kiếm sống bằng nghề quét rác.’

The parson looked him up and down with real distaste. ‘My man, my man,’ he said, ‘I would surmise that you have not been inside a church for a very long time for you are singularly disrespectful to the brethren of the Cloth.’ Old Molygruber looked him back straight in the eye and said, ‘No, mister, I ain’t no God’s boy. I just been told right what I am; I’m an atheist, that’s what I am.’ And he smirked alarmingly as he said it. The parson shifted from foot to foot and looked about him, and then he said, ‘But, my good man, you must have a religion, you must believe in God. You come to church on Sunday and I will have a sermon specially for you, one of my unfortunate brothers who has to sweep garbage for a living.’

Molygruber ngả người tựa hẳn vào cán chổi rồi nói ‘Thưa linh mục, ông sẽ không bao giờ thuyết phục được tôi rằng có Chúa tồn tại đâu. Hãy nhìn lại ông xem, ông có một túi đầy tiền, tôi biết đấy, và tất cả việc ông làm chỉ là xổ ra những lời về một thứ không tồn tại. Thưa ngài Linh mục, ngài hãy chứng minh cho tôi rằng có Chúa đi, hãy đưa ông ấy đến đây để tôi bắt tay ông ấy. Chưa có vị Chúa nào làm gì cho tôi cả.’ Lão ngừng nói, thò tay vào túi lục tìm cho đến khi tìm thấy một điếu thuốc lá hút dở, rút ra một que diêm từ trong túi và quẹt lửa vào ngón tay trước khi tiếp tục nói. ‘Mẹ tôi, bà ấy là một trong những người đàn bà phải làm cái nghề, ông biết nghề gì rồi đấy, để kiếm tiền. Bà ấy không biết cha tôi là ai, cả đống những thằng đàn ông thực sự có liên quan. Tôi phải tự chiến đấu theo cách của mình với những con châu chấu từ khi mới cao bằng đầu gối, và chưa từng có ai làm điều gì tốt đẹp cho tôi cả, nên ông đừng có thuyết giáo với tôi về Chúa, khi ông có một ngôi nhà tiện nghi, có công việc dễ dàng và có một cái ô tô to. Ông hãy đến đây và làm công việc của tôi trên đường phố trước rồi hãy xem Chúa của ông sẽ làm gì cho ông.’

Molygruber leaned complacently on the end of his broom and said, ‘Ah now, parson, you’ll never convince me that there is a God. Look at you there, you get a real packet of money, that I know, and all you do is to shoot out some words about a thing that doesn’t exist. You prove to me Mr. Parson, that there’s a God, bring him here and let me shake hands with him. No God has ever done anything for me.’ He stopped and fidgeted about in his pockets until he found a half smoked cigarette, then he flicked a match out of his pocket and struck it on his thumb nail before continuing, ‘My mother, she was one of those dames wot does it you know what I mean for money. Never did know who my father was, probably a whole gang of fellows responsible really. But I’ve had to fight my way since I was a little lad knee-high to a grasshopper, and nobody’s never done aught for me, so don’t you, from your comfortable house and your comfortable job and your great big car, preach to me about God. Come and do my job on the street first and then see what your God does for you.’

Lão Molygruber khịt mũi một cách giận dữ và đùng đùng bỏ đi. Lão vứt chổi lên xe, nắm lấy tay đẩy, lão lướt nhanh trên đường. Vị linh mục nhìn lão với vẻ mặt vô cùng ngạc nhiên, rồi lắc đầu vừa đi vừa lầm bầm, ‘Ôi chúa lòng lành, một kẻ không có tín ngưỡng thì như thế đấy, rồi thế giới này sẽ đi đến đâu?’

Old Molygruber snorted with rage and jerked into action with unaccustomed speed. He swept his broom onto the top of his barrow, grabbed the handles of the barrow, and almost trotted down the road. The parson looked after him with an expression of utter surprise on his face, and then he shook his head and walked off muttering, ‘Good gracious me, good gracious me, what an ungodly man, what has the world come to?’

Cuối ngày hôm ấy, Molygruber túm tụm với hai người phục vụ, giúp việc hay quản gia tùy theo cách bạn gọi cho những căn hộ quanh khu này. Họ thường có thói quen tụ tập như thế và tán chuyện cùng nhau. Molygruber tỏ ra là người thông tường nhất mọi chuyện ở khu này, lão biết hết nhất cử nhất động của mọi người, biết những ai đi vào đi ra những căn hộ này. Thế rồi lão hỏi một người trong nhóm, ‘Cái ông ngồi xe lăn đấy là ai thế? Nhà văn à?’. Những người giúp việc quay ra nhìn Molygruber, một người phá lên cười và nói ‘Đừng nói với tôi là bây giờ ông lại quan tâm đến cả sách đấy chứ ông bạn già. Tôi tưởng ông đã tránh xa những thứ đấy. Nhưng mà, ông này viết về cái gì đó mà người ta gọi là “nghiên cứu về cái chết”. Chính tôi còn chẳng hiểu nó là cái gì, nhưng tôi có nghe nói lại đó là việc người ta sẽ sống như thế nào sau khi đã chết. Tôi thấy có vẻ kỳ quặc, nhưng thật vậy đấy. Đúng đấy, ông ấy sống ở chỗ chúng tôi.’

Later in the day Molygruber got huddled up close with a couple of janitors, cleaners, managers call them what you will of some of the apartments around. They had a habit of meeting like that and exchanging juicy bits of knowledge. In his own way Molygruber was one of the most knowledgeable men on the block; he knew everybody’s movements, he knew who was going into apartments and who was coming out. So then he said to one of the men, ‘Who’s that old fellow in the wheelchair? Writer, ain’t he?’ The caretakers turned to look at him, and one laughed out loud and said, ‘Don’t tell me YOU are getting interested in books, old fellow. I thought you were above all those things. Anyway, this guy is writing something about what they call “thanatology.” Don’t quite know what it is myself, but I did hear some backtalk about it being how you live when you die. Seems ridiculous to me but there it is. Yes, he lives up in our place.’

Molygruber lăn lăn điếu thuốc trong miệng, nheo mắt nhìn xuống mũi rồi nói ‘Chắc căn hộ đẹp lắm nhỉ? Cá là ở đó toàn đồ xịn. Tôi muốn được vào xem bên trong mấy chỗ như vậy.’

Người giúp việc cười và nói, ‘Không, ông nhầm rồi. Họ sống rất giản dị. Ông không cần phải tin vào những điều ông ấy viết, ông ấy nghĩ, nhưng tôi phải nói rằng ông ấy sống đúng như những thứ ông ấy rao giảng. Trông sức khoẻ ông ấy khá tệ, gần như sắp được thấy sự thật của cuộc sống sau cái chết mà ông ấy đang viết rồi.’

Bet it’s all dolled up with the latest. Like to see inside one of those places myself.’

The caretaker smiled and said, ‘Nope, you’re wrong there. They live very modestly up there. You don’t have to believe all he writes, mind, but I do say as how he lives what he preaches. He’s looking pretty bad enough to soon be going to see the truth of this thanato something that he writes about.’

‘Ông ấy sống ở đâu thế? Ý tôi hỏi là căn hộ nào ấy?’ Molygruber hỏi. Người giúp việc nhìn lão rồi nói, ‘ Ồ, đó là một điều rất bí mật. Mọi người không biết được số nhà của ông ấy đâu, nhưng tôi biết ông ấy sống ở đâu. Thế ông biết để làm gì, hả?’

Molygruber không nói gì cả, rồi họ lại tán dóc những câu chuyện tầm phào khác một lúc, đoạn, lão hỏi ‘Anh bảo là căn chín chín không gì đó phải không, căn hộ của ông kia ấy?’. Người giúp việc cười lớn và nói ‘Tôi thừa biết ông đang cố đánh lừa tôi, đồ chó già ranh ma, nhưng vì là ông, tôi sẽ nói số nhà của ông ấy. Đó là…’

‘Where does he live? What apartment, I mean?’ said Molygruber. The caretaker looked about him and said, ‘Oh, it’s a very secret, secret thing. People don’t get to know his number, but I know where he lives. And what do you know about it, eh?’

Molygruber said nothing and they went about their ordinary desultory conversation for a time, and then he said, ‘Did you say nine-nine-o-something, his apartment?’ The caretaker laughed and said, ‘I know you’re trying to trick me, you sly old dog, but as it’s you I’ll tell you what his number is. It’s ’

Ngay lúc đó, một chiếc xe tải chở rác lạch cạch đậu vào làn đường và máy chuyển rác tự động bắt đầu hoạt động, âm thanh ồn ào át đi tiếng người giúp việc đang nói. Nhưng cứ có tiền là có sáng kiến, Molygruber nhặt một vỏ bao thuốc lá và lấy ra một mẩu bút chì rồi nói ‘Đây, viết vào đây đi. Tôi sẽ không nói ai đã cho tôi biết đâu.’ Miễn cưỡng, nhưng cũng băn khoăn không biết ông già quét rác này định làm gì, người giúp việc làm theo và đưa lại vỏ bao thuốc cho Molygruber. Lão liếc nhìn, một tay để lên đầu,  rồi cho tuột bao thuốc vào túi. ‘Bây giờ tôi phải đi đây,’ người giúp việc nói, ‘tôi phải đi đổ mấy cái thùng rác này, tới lượt bọn tôi rồi, gặp lại sau nhé.’ Nói xong anh ta quay đi, về lại phòng rác của toà nhà. Lão Molygruber cũng bỏ đi.

Just at that moment one of the garbage trucks rattled into the lane and the automatic loader came into action, and the whining noise drowned out what the caretaker was saying. But being wise where money was concerned, Molygruber picked up an empty cigarette packet and fished out a pencil saying, ‘Here y’are, write it on there. I won’t tell who gave it to me.’ Obligingly, but rather wondering what the old cleaner was up to, the caretaker did so and passed it back to Molygruber who glanced at it, touched his hand to his head, and slipped the packet in his pocket. ‘I have to be going now,’ said the caretaker. ‘Got to push out a few of these containers, it’s our turn to get cleaned out next. See you.’ With that he turned and went back into the garbage room of his building. Old Molygruber walked on.

Chẳng mấy chốc xe rác chạy tới, hai người đàn ông nhảy ra, tóm lấy xe cút kít của Molygruber, nhấc lên bỏ vào sau xe tải. ‘Lên đi, ông bạn già’, một người trong họ, có vẻ như là tài xế nói, ‘bọn tôi sẽ chở ông về khu tập kết’. Molygruber lên xe, không mảy may để ý rằng mình sẽ về sớm khoảng 15 phút, rồi họ cùng nhau lái xe về trạm tập kết rác.

Soon the garbage truck came around and two men got out, grabbed Molygruber’s barrow and lifted it up to the back of the truck. ‘Get in, old fellow,’ said one of the menthe driver maybe, ‘and we’ll drive you back to the depot.’ Molygruber got in, not minding at all that he was about fifteen minutes early, and back they drove to the garbage disposal station.

‘Này các cậu,’ Molygruber nói, ‘ các cậu có biết ông nhà văn tên là Rampa ở khu tôi phụ trách không?’.

‘Có’, một người nói, ‘bọn tôi thu gom rác rất nhiều ở toà nhà của ông ấy, ông ấy có vẻ như phải chi khá nhiều cho việc thuốc thang. Bọn tôi dọn đi vô số các thùng rỗng, chai lọ và những thứ tương tự, tôi thấy bây giờ ông ấy đang phải tiêm hay truyền gì đó rất nhiều, ông ấy có những ống kim tiêm có đánh dấu “vi trùng lao”. Chẳng biết nó là gì, nhưng thấy nó ghi vậy. Bọn tôi đã phải can một người giúp việc, một người quản gia, không gọi cảnh sát vì ai mà có thể cần mấy thứ này nhiều như thế? Họ băn khoăn hay ông già này đang dùng ma tuý.’ Người thu gom rác ngừng nói khi tay cẩn thận quấn điếu thuốc lá, khi đã hoàn toàn hài lòng rồi, anh ta nói tiếp, ‘Tôi không bao giờ tin vào những người đi báo cảnh sát những trường hợp chưa có căn cứ như vậy. Tôi nhớ, hồi năm ngoái có một vụ rối rắm lắm, một người quản gia tìm thấy một bình oxy cũ trong đống rác, và mặc dù cái bình rỗng không, hoàn toàn trống rỗng thậm chí còn không có cả van, mà cô ấy vẫn gọi cảnh sát, rồi cô ấy liên hệ cả với bệnh viện nữa, sau một loạt các rắc rối thì cuối cùng cũng tìm ra lời giải thích hoàn toàn hợp pháp. Xét cho cùng, người ta dùng bình oxy làm gì nếu không bị bệnh đúng không?’ Họ ngẩng lên nhìn rồi hành động ngay. Họ đã quá giờ làm thêm được một phút rồi mà họ không được trả công cho việc đó. Rất nhanh chóng họ cởi bộ đồ bảo hộ, khoác chiếc áo khoác thường ngày rồi lao nhanh ra xe để đi giết thời gian nhàn rỗi bằng việc lang thang quanh các góc phố.

‘Say, you fellows,’ said Molygruber, ‘do you know the writer named Rampa in my beat?’

‘Yes,’ said one of the men. ‘We collect a lot of stuff from his block, he sure does seem to spend a lot on medication. We get an awful lot of empty cartons, bottles, and the like, and I see now he’s been having a lot of injections or something, he’s got needles what’s marked “Tuberculin.” Don’t know what it is but that’s what they’re marked. Had to stop a caretaker, a relief one, from getting in touch with the police because how come anyone would want these things? Is the old fellow taking drugs, they wondered.’ The garbage collector stopped while he carefully rolled a cigarette, then when he was quite satisfied he resumed, ‘Never did believe in people getting in touch with the police on wild cases. I mind a little way back, last year it was, there was a real humdinger of a fuss, a relief caretaker had found an old oxygen cylinder among the garbage and in spite of the cylinder being quite, quite empty without even a valve on it she got in touch with the police, she got in touch with the hospitals until eventually after a lot of trouble it was found there was a perfectly legal explanation. After all, people don’t have oxygen cylinders unless they’re ill, do they?’ They glanced up and jumped into activity. It was a minute past the hour they were working overtime and not getting paid for it. Quickly, quickly they tore off their over alls, put on their everyday jackets, and rushed off to their cars to spend an idle time lounging around the street corners.

Sáng hôm sau Molygruber đi làm muộn một chút. Khi đang vào trạm để lấy xe, một người đàn ông nhiệt tình chào hỏi từ trong buồng lái của chiếc xe tải đang trờ tới. ‘Chào Moly’, anh ta hét lớn, ‘Có cái này cho ông này, ông có hỏi rất nhiều về tay nhà văn nên đây có vài thứ ông ấy viết, ông xem đi.’ Nói rồi anh ta ném một quyển sách bìa giấy về phía Molygruber. Tựa đề quyển sách là ‘Tôi tin’. ‘Tôi tin’, Molygruber lẩm bẩm. ‘Đừng cho tôi mấy thứ vớ vẩn này. Khi anh chết tức là anh đã chết thôi. Sẽ chẳng có ai đến với tôi và nói ‘Chào Molygruber, ông đã sống tốt kiếp này đấy, ông bạn già ạ, đây là một chiếc vương miện đặc biệt làm cho ông từ đống lon rác thải’. Nói thế nhưng lão cũng lật quyển sách trên tay, lướt qua vài trang, và rồi nhét vào túi áo trong. ‘Molygruber, ông làm gì ở đây? Ông đang ăn cắp gì đấy?’ một giọng nói thô lỗ vang lên, và từ một căn phòng nhỏ, một người đàn ông to béo xuất hiện, giơ tay ra và nói, ‘Đưa đây’. Molygruber lặng lẽ cởi cúc áo trên cùng của chiếc áo khoác, lấy quyển sách ra và đưa cho ông ta. ‘Hừm’, người giám thị, hay đốc công, hay gọi là gì cũng được, nói. ‘Vậy là bây giờ ông đang chuyển sang loại người này à? Tôi tưởng ông chẳng bao giờ tin vào cái gì ngoại trừ mấy vại bia và phiếu chi lương?’

Next morning Molygruber was a little late getting to work. As he moved into the depot to get his barrow a man gave him a hearty greeting from the cab of an incoming truck. ‘Hey, Moly,’ he shouted. ‘Here’s something for you, you’ve been asking so much about the guy here’s something wot he writes. Get your head into it.’ And with that he tossed a paperback book at Molygruber. The title was ‘I Believe’. ‘I Believe,’ muttered Molygruber. ‘Don’t give me none of that rot. When you’re dead you’re dead. Nobody’s ever going to come along to me and say “Hi Molygruber, you done pretty well in your life, old man, here’s a special throne made for you out of old garbage cans.” ’ But he turned the book over in his hands, fumbled through a few pages, and then shoved it into an inside pocket. ‘What you doing there, Molygruber? What you stealing now?’ a coarse voice asked, and out of a little office a squat, thickset man emerged, extended his hand, and said, ‘Give.’ Molygruber silently unbuttoned the top button of his jacket and fished out the paperback book, then passed it over. ‘Hum,’ said the superintendent, or foreman, or whatever he was. ‘So you’re going in for this type of thing now, eh? Thought you didn’t believe in anything except your pints and your pay packet?’

Molygruber cười với người đàn ông mập mạp, trông tuy lùn nhưng vẫn cao hơn lão, rồi nói ‘Ấy Sếp, ông có cả đống sách đó rồi, vậy ông nói cho tôi nghe xem người ta sống thế nào nếu như có cuộc sống sau khi chết? Nếu tôi đi đường và nhìn thấy một cái đầu con cá ở góc phố tôi phụ trách, tôi nhặt cái đầu cá lên và  chẳng ai sẽ nói với tôi là con cá sắp sống lại cả.’ Lão xoay người nhổ nước bọt rõ mạnh xuống đất.

Molygruber smiled up at the squat man who, although short, was still taller than Molygruber, and said, ‘Ay, ay, Boss, you get a load of that book yourself and see if you can tell me how they make out, if there’s any life after this. If I go along and I see a fish head in the corner of one of the lanes I picks up that fish head and nobody’s ever going to tell me the fish is going to live again.’ He turned and spat expressively on the floor.

Người đốc công lật qua lật lại quyển sách trên tay rồi chậm rãi nói, ‘Ông biết đấy, Molygruber, có rất nhiều điều về sự sống và cái chết, chúng ta không hiểu hết được đâu. Bà nhà tôi, bà ấy thực sự bị người đàn ông này thuyết phục, bà ấy đọc hết tất cả sách của ông ta và thề rằng những điều ông ta viết chỉ có thật mà thôi. Vợ tôi hơi biết tiên tri, ông biết đấy, bà ấy đã có một chút trải nghiệm mà lúc kể ra khiến tôi sợ chết khiếp. Thực sự, cách đây vài hôm, bà ấy doạ tôi quá sợ về mấy hồn ma mà bà ấy bảo là đã gặp đến nỗi hôm đó tôi ra ngoài uống một hai ly và khi đó một hai ly là quá nhiều, và lúc về đến nhà đêm hôm đó, tôi đã sợ cả chính cái bóng của mình. Nhưng thôi, đi làm đi, lão già này, về khu vực của ông đi, muộn rồi đấy. Lần này tôi không chấm công ông đi muộn vì cũng tại tôi kéo dài thời gian của ông, nhưng hãy đi đi. Bước nhanh chân lên. Biến đi!’

The superintendent turned the book over and over in his hands and then said slowly, ‘Well, you know, Molygruber, there’s a lot of things about life and death; we don’t understand it at all. My missus, she’s real sold on this feller, she’s read all his books and she swears that what he writes about is the truth and nothing but. My wife’s a bit of a seer, you know, she’s had a few experiences and when she talks about ’em it sure scares the hell out of me. In fact, only a couple of nights ago she frightened me so much about the ghosts she claims to have met that I went out and had a drink or two and then a drink or two too many, and by the time I got home that night well, I was afraid of my own shadow. But get on with your work, lad, get down on your beat, you’re late. I won’t book you this time because I’ve been delaying you myself, but get a move on. Make one foot get in front of the other a bit faster than usual. Git!’

Vậy là lão Molygruber tóm lấy xe của mình, kiểm tra chắc chắn xe đang rỗng, đúng chổi của mình, lão thong thả đẩy xe ra đường, bắt đầu một ngày làm việc trong vai người quét rác đường phố.

Đúng là là một công việc tẻ nhạt. Một nhóm học sinh vừa đến và để lại rác thải vứt bừa bãi xuống mương thoát nước. Lão Molygruber lầm bầm chửi rủa trong khi cúi nhặt những giấy bọc kẹo, bọc chocolate và tất cả những thứ rác thải của bọn trẻ vứt ra. Chiếc xe nhỏ bé của lão chả mấy mà đầy. Lão dừng lại một lúc, ngả người dựa vào cán chổi và ngắm nhìn những công trình đang xây. Xem chán, lão lại chuyển sang thứ khác. Một chiếc xe hỏng đang được kéo đi. Tiếng đồng hồ điểm giờ và Molygruber duỗi người, lăn điếu thuốc sang góc miệng bên kia rồi đi chuyển đến một cái chòi trong công viên nhỏ vào giờ ăn trưa. Lão thích vào trong đó để ăn trưa, tránh xa những người ngồi trên bãi cỏ bên ngoài kia, họ chỉ đang xả thêm nhiều rác cho lão dọn.

So old Molygruber grabbed his barrow, made sure it was empty, made sure the brush was his, and off he ambled down the road, starting another day as a street garbage collector.

It was boring work all right. A whole bunch of school kids had come by and left their filthy litter in the gutters. Old Molygruber muttered cross imprecations as he bent down to pick up toffee papers, chocolate papers, and all the litter which ‘a bunch of kids’ make. But his little barrow was soon full. He stopped awhile, leaned on the end of his broom, and watched some building construction. Then tiring of that he moved on to something else. A broken down car was being towed away. Then a clock struck and Molygruber straightened up a bit, shifted the cigarette to the other side of his mouth, and moved off down to the shelter in the little park lunch time. He liked to go in there and have his lunch away from the people who sat on the grass outside just making more litter for him.

Lão đi dọc theo con đường, đẩy chiếc xe cút kít phía trước, khi đến chỗ cái chòi, lão móc ra một chiếc chìa khoá và mở cánh cửa hông rồi đi vào. Thở phào nhẹ nhõm, lão đẩy chiếc xe ra khỏi lối đi, ngồi xuống bệ để các chậu hoa, những chậu hoa được đóng gói để dành cho khu vườn. Đang lục lọi trong túi đựng thức ăn để tìm bánh sandwich thì bất ngờ một bóng đen xuất hiện trên lối vào. Lão nhìn lên và thấy người đàn ông lão đang mong gặp. Ý nghĩ về tiền đã thật sự thu hút lão.

He walked down the road pushing his barrow before him, and then reaching the little shelter he fished a key out of his pocket and unlocked the side door, and in he went. With a sigh of relief he pushed his barrow out of the way and sat down on a load of flower crates, crates in which flowers for the garden had been packed. He was just rummaging about in his ‘lunch pail’ for his sandwiches when a shadow fell across the doorway. He looked up and saw the man he had been hoping to see. The thought of the money greatly attracted him.

Người đàn ông bước vào chòi và ngồi xuống. Anh ta nói ‘Sao rồi, tôi đến để lấy thông tin mà ông đã thu thập cho tôi.’ Vừa nói, anh ta vừa rút ví và vân vê những tờ tiền. Lão Molygruber nhìn anh ta vẻ nghi ngờ và nói ‘Thế anh là ai? Những người lao công đường phố chúng tôi không cung cấp thông tin cho bất kỳ ai đến đây đâu, anh biết đấy, chúng tôi phải biết chúng tôi đang trao đổi với ai.’ Nói xong, lão cắn một miếng sandwich thật to, nước cà chua cùng với hạt bắn toé cả ra ngoài. Người đàn ông đang đứng trên những thùng đối diện vội vã nhảy tránh sang một bên.

The man walked into the shelter and sat down. He said, ‘Well, I have come for the information you were getting for me.’ As he spoke he got out his wallet and fiddled with the notes. Old Molygruber looked at him dourly and said, ‘Well, who be you, mister? We street orderlies don’t just give information to anybody who comes along, you know, we got to know who we’re dealing with.’ With that he took a hearty bite at one of the sandwiches and squashed tomato, pips and all, came spurting out. The man sitting on the boxes opposite hastily jumped out of the way.

Người đàn ông có thể kể gì về mình? Liệu anh ta có thể nói rằng ai cũng biết mình là người Anh, là một người của Eton ngay cả khi anh ta chỉ mới đến Eton có chưa đầy một tuần vì một sai lầm không may, khi mà trong một đêm tối trời, anh ta đã nhầm người vợ của một chủ nhà thành một trong những người hầu gái và rồi những hậu quả nghiêm trọng đã xảy ra. Thế là anh ta đã bị trục xuất gần như ngay lập tức sau khi đến, điều đó đã trở thành kỷ lục. Nhưng anh ta thích khoa trương rằng mình đã từng đến Eton, và điều đấy cũng đúng thật mà!

What could the man tell him about himself? Could he say that anyone would have known that he was an Englishman and a product of Eton even though he had been to Eton for only rather less than a week through an unfortunate mistake when, during the darkness of one night, he had mistaken the wife of one of the house masters for one of the room maids with quite disastrous consequences. So he had been expelled almost before he had arrived, thus establishing some sort of a record. But he liked to claim that he had been to Eton, and that was perfectly true!

‘Tôi là ai à?’ anh ta trả lời. ‘Tôi đã nghĩ là cả thế giới này đều biết tôi là ai. Tôi là người đại diện của một trong những nhà xuất bản danh tiếng nhất của nước Anh và tôi muốn biết chi tiết về câu chuyện cuộc đời của tác giả này. Tên tôi là Jarvie Bumblecross.’

‘Who am I?’ he said. ‘I should have thought the whole world would know who I am. I am the representative of a most prestigious English publication, and I wanted the in depth life story of this author. My name is Jarvie Bumblecross.’

Lão Molygruber cứ ngồi đó nhai bánh, tiếp tục văng vãi vụn sandwich khắp nơi và tự lầm bầm. Lão cầm thuốc lá trên một tay và tay kia cầm sandwich, cứ cắn một miếng sandwich là lão lại làm một hơi thuốc. Thế rồi lão nói, ‘Jarvie hả? Tên này mới đấy nhỉ!Vậy thì sao?’ Anh ta ngẫm nghĩ một lúc và quyết định rằng có cung cấp thông tin cho lão già này chắc cũng không hại gì. Dù sao đi nữa, anh ta có thể sẽ không bao giờ gặp lại lão nữa. Vậy nên anh ta nói, ‘Tôi là thành viên của một gia tộc cổ, có truyền thống nhiều đời ở Anh, nhiều năm trước đây, bà cố bên ngoại của tôi đã bỏ trốn để kết hôn với một người đánh xe ngựa ở Luân-Đôn. Ngày đấy, những người đánh xe thường được gọi là Jarvie, và để tưởng nhớ câu chuyện tình yêu kém may mắn đó, những thành viên nam của gia tộc được đặt tên là Jarvie kể từ đó.

Old Molygruber just sat there munching away, spraying sandwich all over the place and mumbling to himself as he did so. He had a cigarette in one hand and a sandwich in the other; first he would take a bite of the sandwich, then he would take a draw at the cigarette and so on. Then he said, ‘Jarvie, eh? That’s a new name to me. How come?’ The man thought for a moment and then decided that there was no harm in telling this fellow. After all, he would probably never see him again. So he said, ‘I belong to an old English family which goes back for many generations and many years ago my maternal great-grandmother eloped with a cabman in London. In those days cabmen were called “jarvies”, and so to commemorate what was a rather unfortunate affair, male members of the family have had the name of Jarvie ever since.’

Lão Molygruber ngẫm nghĩ một lúc rồi nói, ‘Vậy là anh muốn viết về cuộc đời của ông này phải không? Tôi nghe nói là ông ấy đã viết quá nhiều về cuộc đời của mình. Từ những gì mà những người khác và tôi nghe được thì hình như cánh nhà báo các anh đang làm khổ ông ấy. Ông ấy chưa từng làm gì hại đến tôi, và bây giờ nhìn đây này’ Lão chìa ra một chiếc sandwich. ‘Nhìn xem mực báo in khắp trên bánh mì này, làm sao tôi ăn được nữa? Mua mấy tờ giấy báo này làm gì nếu các anh không dùng loại mực nào không lem? Không bao giờ ưa được mùi vị của mấy tờ báo này cả.’

Old Molygruber thought it over for a time and then said, ‘So you want to write about this fellow’s life, do you? Well by what I’ve been hearing he’s had too much written about his life. Seems to me from what the other fellows and I have heard that you pressmen are making life a misery for him and his likes. He’s never done any harm to me, and look at this now ’ He extended one of his sandwiches. ‘Look at it dirty newsprint all over the bread. How am I supposed to eat that? What’s the good of buying these papers if you don’t use an ink which stays put? Never did like the taste of newsprint.’

Người đàn ông càng lúc càng bực mình. Anh ta nói ‘Ông muốn cản trở công việc của báo chí à? Ông có biết rằng các nhà báo hoàn toàn có quyền được đi bất cứ đâu, vào bất kỳ nơi nào, và hỏi bất kỳ ai không? Tôi đã khá hào phóng trả tiền cho ông để lấy thông tin. Trách nhiệm của ông là phải cung cấp thông tin miễn phí cho nhà báo.’

The man was getting crosser and crosser by the minute. He said, ‘Do you want to impede the work of the mass media? Do you not know that they have a perfect right to go anywhere, to enter anywhere, and to question anyone? I was being very generous in offering you money for information. It is your duty to give it freely to a member of the press.’

Lão Molygruber thấy cơn nóng giận đột ngột bốc lên. Lão không thể chịu được gã người Anh ăn nói trơn tuột này, kẻ nghĩ mình cao hơn cả Chúa, nên lão đứng dậy và nói ‘Cút đi, cuốn xéo với tiền của anh đi không là tôi sẽ tống anh vào xe rác này rồi đưa về bãi tập kết để mấy gã kia tẩn cho anh một trận.’ Đoạn, lão tóm lấy chiếc cào lá và tiến về phía người đàn ông kia. Anh ta bật dậy, lùi về phía sau và trượt ngã trên đống thùng gỗ. Mặc dù ngã chổng vó nhưng anh ta cũng không nằm lâu trên đất. Liếc nhìn khuôn mặt giận dữ của Molygruber, anh ta đứng lên nhanh như chớp và bỏ chạy không dám đứng lại.

Old Molygruber had a sudden flush of rage. He couldn’t stick this smooth-talking Englishman who thought he was one higher than God himself, so he rose to his feet saying, ‘Git you gone, mister, git yourself off beat it scram mosey or I’ll pack you up in my barrow and take you back to the depot for the other fellows to give a working over.’ He grabbed up a leaf rake and advanced on the man who got up quickly, moved backwards and tripped over all the crates. He went down in what seemed to be a welter of arms and legs and flying wood, but he did not stay down. One look at old Molygruber’s face and he was up in a flash and he did not stop running for quite a time.

Lão Molygruber chậm rãi đi vòng quanh nhặt những chậu cây và những mảnh gỗ rơi vãi, cáu kỉnh lầm bầm một mình, ‘Người đánh xe ngựa hay bất kỳ thứ quái quỷ gì đấy, tưởng tôi dễ tin lắm à, nếu có bà cố ngoại hay ai đi chăng nữa đã cưới một người đánh xe thì làm sao gã này lại xuẩn ngốc đến thế? À, chắc chắn rồi,’ lão tiếp tục nói, gương mặt càng lúc càng tối sầm lại vì tức giận, ‘Bởi vì gã này là người Anh nên mới có thái độ kiểu đó.’ Lão lại ngồi xuống, và phải ăn hết phần sandwich còn lại, nhưng không thể, lão quá giận nên không ăn tiếp được, thế là lão gói hết đồ ăn còn lại nhét vào túi rồi đi ra ngoài công viên để uống nước từ một vòi nước công cộng.

Old Molygruber moved slowly around picking up crates and odd pieces of wood, mumbling irritably to himself, ‘Jarvie cab driver whatever sort of yarn do they expect me to believe and if he had a great-grandmother, or whoever it was, married a cab driver then how come this fellow is such a stupid dope? Ah, for sure,’ he went on, his face getting darker and darker with anger, ‘it must be because he’s an Englishman that he’s got this manner.’ He sat down again and had a go at the second lot of sandwiches, but no, he was too angry to continue so he bundled the rest of his food back into his lunch pail and went out to the park to get a drink from the tap there.

Lão đi loanh quanh, quan sát mọi người. Cuối cùng thì đây cũng là giờ nghỉ trưa của lão mà. Quanh một góc đường khuất sau một rặng cây, hai linh mục tiến lại gần. ‘A, con người tốt bụng đây rồi’, một người nói, ‘ông có thể chỉ giúp tôi à, ừ, nhà vệ sinh nam được không?’ Lão Molygruber, đang không vui, nói, ‘Không có, không có thứ đó ở đây. Ông phải đi vào một khách sạn nào đó rồi nói đang gấp, cần đi nhờ. Các ông đến từ Anh quốc, ở đó có nhà vệ sinh ở trên phố. Còn ở đây chúng tôi không có, phải đi đến trạm xăng hoặc khách sạn hay chỗ nào đấy tương tự.’

He moved about looking at the people. After all, this was his lunch time. And then around the corner of a path where they had been hidden by a tree two parsons approached. ‘Ah, my good man,’ said one, ‘can you tell me where there are er, er, public facilities for men?’ Old Molygruber, in a bad mood, said, ‘Nay, there ain’t none of them things here, you’ll have to get off to one of them hotels and say you’ve got to do it in a hurry. You come from England where they have ’em in the streets. Well, we don’t have ’em here, you’ll have to go to a gas station or a hotel or the like.’

‘Kỳ lạ, kỳ lạ thật’, một linh mục nói với người còn lại, ‘một số người Canada có vẻ cực kỳ ác cảm với người Anh chúng ta nhỉ.’ Rồi họ vội vã đi về phía khách sạn chỉ cách một dãy nhà phía trước.

Ngay lúc đó, có tiếng thét từ phía chiếc hồ nhỏ giữa khu vườn. Molygruber chạy nhanh đến xem có chuyện gì mà ầm ĩ vậy. Lão đi theo con đường nhỏ về phía hồ và nhìn thấy một đứa trẻ tầm 3 tuổi đang nổi trên hồ, đầu nó lúc chìm lúc nổi trên mặt nước. Quanh chiếc hồ nhỏ, cả đám người đứng xem bất động, không ai có một chút cố gắng nào để cứu đứa trẻ và kéo nó ra khỏi hồ.

‘How extraordinary, how extraordinary,’ said one of the parsons to the other, ‘some of these Canadians seem to be intensely averse to we of England.’ They went on in some haste to get up to the hotel just a block further on.

Just then there were screams coming from the direction of the little lake in the centre of the garden. Molygruber turned in a hurry to see what was the excitement. He walked down the path toward the pond and saw a small child of about three floating in the water; her head kept going under the water and bobbing up again. Around the side of the little pond a group of on-lookers stood idly, no one making the slightest attempt to go to the rescue and pull the child out.

Lão Molygruber đôi lúc cũng có thể chạy nhanh được. Và bây giờ lão đang chạy. Lão lao về phía trước, xô vào lưng một bà già và khiến cho một người khác bị lảo đảo. Molugruber nhảy qua bức tường đá nhỏ và loạng choạng lội qua chỗ nước cạn. Lúc đó chân lão trượt trên đám rêu trơn dưới đáy hồ, và lão ngã đập đầu xuống, da đầu rách bươm, nhưng lão đứng dậy, nâng đứa trẻ trong tay dốc ngược xuống như để chảy hết nước khỏi phổi con bé. Làm như vậy xong, lão bước đi thận trọng trên nền hồ trơn trượt và rồi lại trèo qua bức tường để lên bờ. Một người phụ nữ lao đến chỗ lão và hét lên ‘Mũ nó đâu? Mũ nó đâu rồi? Cái mũ tôi vừa mới mua ở Bay đấy, ông ra lấy nó đi.’

Old Molygruber could move fast sometimes. He did now. He charged forward and knocked some old woman flat on her back and another one went reeling sideways. Molygruber jumped over the little stone wall and floundered through the shallow water. As he did so his foot slipped on some slime at the bottom of the pond and he went down head first, cutting his scalp rather badly, but he got up, scooped up the child in his hands and held her upside-down as if to pour the water out of her. Having done that, he stepped gingerly along the slippery bottom and then climbed over the wall again on to dry land. A woman came rushing toward him yelling, ‘Where’s her hat? Where’s her hat? It was a new one I only just bought at the Bay, you’d better get it.’

Molygruber cáu kỉnh ấn đứa trẻ, ướt như chuột lột, vào tay mẹ nó. Người phụ nữ lùi lại vì sợ nước làm bẩn váy của mình. Lão Molygruber quay trở lại chiếc chòi nhỏ của lão. Lão đứng đó ủ rũ một lúc, nước trên quần áo lão chảy nhỏ giọt vào trong giầy và chảy tràn ra sàn nhà. Nhưng lúc đó, lão nghĩ, lão chẳng có quần áo nào để thay cả, chắc cũng không sao, quần áo trên người sẽ khô ngay thôi. Lão mệt mỏi nắm lấy càng xe cút kít, đẩy xe ra ngoài rồi khoá cửa lại.

Molygruber crossly thrust the child, so wet and dripping, in her mother’s arms. The woman reeled back to think of her dress being spoiled by the water. Old Molygruber moved on back to his little shelter. For some time he stood there glumly with water leaking down his clothes and oozing into his shoes and overflowing out on to the floor. But then, he thought, he didn’t have any clothes to change into: it would be all right though; the clothes would soon dry on him. Wearily he grabbed the handles of the barrow, moved out with it and locked the door after him.

Lão rùng mình vì một cơn gió lạnh thổi từ phương Bắc tới, và ai cũng biết gió Bắc thực sự là giá lạnh. Lão Molygruber run rẩy quay trở lại công việc, làm tích cực hơn với hy vọng sẽ nóng người lên và làm khô bộ quần áo.

Lão bắt đầu đổ mồ hôi, nhưng quần áo thì chẳng có vẻ khô đi là mấy. Lão cứ cặm cụi quét, quét mãi như vô tận cho đến khi cuối cùng cũng đến giờ trở về khu tập kết rác.

He shivered because a cold wind had come blowing from the North, and everyone knows that a wind from the North is a cold wind indeed. Old Molygruber shivered and went to work a bit harder in an attempt to generate some warmth and so dry out his clothes.

Soon he began to perspire freely but his clothes didn’t seem to be drying much. He was slopping and squelching along, and it seemed to be an absolute eternity until at last the time came for him to go back to the depot.

Những người đồng nghiệp khá ngạc nhiên trước sự im lặng của lão Molygruber. ‘Ông sao thế, ông bạn già Moly?’ một người hỏi. ‘Trông ông ấy như vừa mất một đô la mà chỉ mới tìm lại được một cent, không thích thấy ông ấy im lặng thế này, phải không? Tôi thắc mắc có chuyện gì xảy ra vậy?’

The other men were somewhat astonished at old Molygruber’s silence. ‘What’s wrong with old Moly?’ asked one. ‘He looks as if he’d lost a dollar and found a cent, not like him to be so quiet, is it? Wonder what happened?’

Chiếc xe cũ kỹ của lão khó khăn lắm mới đề được máy, và ngay khi đã khởi động được máy và chuẩn bị lái xe đi, lão chợt phát hiện ra một bánh xe sau đã bị bẹp dí. Lão chửi thề thật to, tắt máy, chui ra khỏi xe, rồi mệt nhọc thay bánh xe mới. Thay xong, lão trở vào trong xe và lại khó nhọc khởi động máy. Khi về đến căn phòng lẻ loi của mình, lão cảm thấy phát ốm vì tất cả, phát ốm vì cứu người, vì công việc, vì sự cô đơn, vì mọi thứ. Lão nhanh chóng cởi quần áo, lau khô người bằng một chiếc khăn cũ rồi trèo lên giường ngủ mà chẳng buồn tìm thêm cái gì để ăn.

His old car was hard to start and then just as he did start and was ready to drive off he found that one of his rear tires was flat, so with a very loud curse he stopped the engine, got out, and went through the laborious task of changing his wheel. With that done he got into his car again and once more experienced great difficulty in getting the thing started. By the time he got home to his lonely room he was sick of the whole thing, sick of saving people, sick of work, sick of loneliness, sick of everything. Quickly he peeled off his clothes, mopped himself dry with an old towel, and climbed into bed without bothering to have anything more to eat.

Đến đêm, lão thấy mình vã mồ hôi. Đêm dài như vô tận, lão thấy khó thở và người lão nóng như lửa. Lão nằm đó, trong bóng tối, thở khó nhọc và tự hỏi không biết mình đang bị làm sao, rồi nghĩ sáng mai sẽ đến hiệu thuốc mua vài viên thuốc cảm lạnh hoặc cái gì đó để làm dễ chịu cái ngực của lão.

In the night he found that he was sweating profusely. The night seemed to be endless, he was having difficulty in breathing and his body seemed to be on fire. He lay there in the darkness breathing harshly and wondering whatever could be wrong with him but thinking that in the morning he would go along to the drug store and get some cough tablets or something to ease the trouble in his chest.

Mãi trời chưa sáng, nhưng cuối cùng thì những tia sáng rực rỡ của mặt trời cũng đã chiếu rọi vào chiếc cửa sổ nhỏ trong phòng và thấy lão vẫn còn thức với gương mặt đỏ bừng vì sốt cao. Lão cố gắng đứng dậy, nhưng ngã gục xuống sàn. Lão không biết mình đã nằm ở đó bao lâu, nhưng cuối cùng lão cũng bừng tỉnh bởi có sự chuyển động. Lão mở mắt, nhìn lên và thấy hai người đàn ông cấp cứu đang nhấc lão lên một chiếc băng-ca. ‘Viêm phổi nặng đấy ông già’ một người trong đội cấp cứu nói. ‘Bọn tôi sẽ đưa ông về Bệnh Viện Đa Khoa, ông sẽ ổn thôi.’ ‘Ông có người thân không? Ông muốn chúng tôi liên lạc với ai?’ người kia hỏi.

Lão Molygruber mệt mỏi nhắm mắt và chìm vào giấc ngủ. Lão hoàn toàn không biết gì khi họ đưa lão lên xe cứu thương, khi xe vào cổng cấp cứu của bệnh viện, rồi đưa lão vào phòng bệnh và đặt lão lên giường.

Morning was long a coming, but at last the red rays of the sun shone in his small window to find him still awake with a red face and a burning temperature. He tried to get up but collapsed on the floor. How long he stayed there he did not know, but eventually he was awakened to movements. He opened his eyes and looked up and found two ambulance men just lifting him on to a stretcher. ‘Double pneumonia, that’s what you’ve got, old man,’ said one of the ambulance men. ‘We’re taking you to the General. You’ll be all right.’ The other said, ‘Any relatives? Who do you want us to get in touch with?’

Old Molygruber closed his eyes in weariness and lapsed into a troubled sleep. He did not know when he was carried out to the ambulance, he did not know when the ambulance drove in to the hospital Emergency entrance, nor when he was carried up to a ward and put into a bed.

 

Người dịch: Phí Bích Thuận

Biên tập: Phạm Thị Liễu

Tổng biên tập: Trung tâm VMC


Có thể bạn quan tâm

Xem tất cả

Đăng ký hướng dẫn Thiền cơ bản

Loading...
Logo-vmc
TRUNG TÂM THIỀN ĐỊNH:
- Số 116 Trần Vỹ, Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội
Chị Khánh:  

‎0981956875

Chị Thủy:  

‎0981956820

Facebook:

facebook.com/congdongthienVietNam

TIN TỨC NỔI BẬT

© 2024 Copyright by IT AUM