Loading...
Cộng đồng thiền Việt Nam

Chi hội phát triển cộng đồng thiền Việt Nam

Cộng đồng thiền Việt Nam

image-alt-text

Chương VI – Câu chuyện của Rampa – Losang Rampa

Chương VI – Câu chuyện của Rampa – Losang Rampa

09:52 29/09/2020

New York dường như là một nơi không thân thiện. Những người tôi dừng lại hỏi đường đều nhìn tôi với ánh mắt hoảng sợ rồi vội vã bỏ đi. Sau một đêm ngủ dậy, tôi ăn sáng rồi lên xe buýt đến Bronx. Đọc báo tôi thấy rằng thuê nhà ở đó sẽ rẻ hơn. Đến gần công viên Bronx tôi xuống xe và đi chầm chậm dọc theo dãy phố để tìm xem có biển quảng cáo “cho thuê nhà” nào không. Một chiếc xe chợt lao tới, vọt lên giữa hai xe tải chở hàng, nó mất lái lao lên hè rồi đâm vào tôi từ bên trái. Một lần nữa tôi lại nghe thấy tiếng xương gãy. Khi trượt ngã trên hè, trước khi tôi bất tỉnh, tôi còn nhìn thấy một người đàn ông giật lấy hai cái vali của tôi rồi vội vã bỏ đi.

NEW YORK seemed such an unfriendly place. People whom I attempted to stop to enquire the way gave me a frightened look and hurried on. After a night’s sleep, I had my breakfast and boarded a bus for the Bronx. From the papers I had gained the idea that lodgings would be cheaper there. Near Bronx Park I alighted and trudged along the street looking for a “Room for Rent” sign. A speeding car flashed between two delivery vans and on to the wrong side of the road, skidding, it mounted the sidewalk and struck me on the left side. Once again I heard the breaking of bones. As I slid to the sidewalk, and before merciful oblivion claimed me, I saw a man snatch up my two suitcases and hurry off.

Không gian tràn đầy tiếng nhạc. Tôi cảm thấy hạnh phúc và dễ chịu sau bao năm bôn ba vất vả. “A!”, tiếng của Lạt Ma Minh Gia vang lên, “Vậy là con lại phải quay về đây à?” Tôi mở mắt và thấy ngài đang mỉm cười nhìn xuống tôi với ánh mắt đầy yêu thương. “Cuộc sống dưới trần gian thật vất vả và khốn khổ, con đã có những trải nghiệm mà, may mắn thay, đa số con người không phải trải qua. Cũng chỉ là một giai đoạn thôi, Lobsang, chỉ là một giai đoạn không dễ chịu. Sau một đêm dài sẽ là một ngày hoàn hảo, lúc đó không cần con quay trở lại trần gian nữa, mà cũng không về một thế giới thấp kém nào khác nữa.” Tôi thở dài. Ở đây thật dễ chịu, điều đó càng làm rõ sự khác biệt với cuộc sống khắc nghiệt và bất công ở dưới trần gian. “Con, Lobsang của ta”, Thầy tôi nói, “Con đang sống kiếp cuối cùng ở dưới trần gian. Con đang được gột rửa sạch nghiệp quả và đang thực hiện một trọng trách, một nhiệm vụ mà những thế lực xấu xa đang tìm cách cản trở.”

Nghiệp quả! Nó khiến tôi nhớ lại một cách sống động bài học mà tôi đã học được ở Lhasa yêu dấu, xa xôi…

The air was full of the sound of music. I was happy, comfortable after years of hardship. “Ah!” exclaimed the voice of the Lama Mingyar Dondup, “So you have had to come here again?” I opened my eyes to find him smiling down upon me, with the utmost compassion shining from his eyes. “Life upon Earth is hard and bitter, and you have had experiences from which, happily, most people are spared. It is just an interlude, Lobsang, just an unpleasant interlude. After the long night will come the awakening to a perfect day when no longer need you return to Earth, nor to any of the lower worlds.” I sighed. It was pleasant here and that accentuated even more the harshness and unfairness of the Earth life. “You, my Lobsang,” said my Guide, “are living your last life upon Earth. You are clearing up all Kharma and are also doing a momentous task, a task which evil powers seek to hinder.”

Karma! It recalled vividly to my mind the lesson which I had learned in beloved, far-off Lhasa . . .

Tiếng leng keng của những chiếc chuông bạc nhỏ không còn nữa. Cũng không còn những tiếng kèn vang lên khắp thung lũng Lhasa, âm thanh vang động và trong trẻo trong khoảng không mong manh. Quanh tôi là một sự im lặng huyền bí, một sự tĩnh lặng không nên có. Tôi tỉnh dậy từ một giấc mộng đúng lúc các nhà sư trong chùa bắt đầu thâm trầm tụng Kinh cầu cho Người chết. Người chết à? Đúng vậy! Đọc Kinh cho một vị sư già vừa lìa trần. Chết, sau khi cả cuộc đời sống trong đau khổ, phụng sự, nhưng lại không được ai thấu hiểu và không vui vẻ cho mấy.

“Nghiệp quả của ông ta chắc đã phải khủng khiếp thật,” tôi tự nhủ. “Chắc hẳn ông ta phải xấu xa tội lỗi lắm ở kiếp trước thì mới bị quả báo như vậy.”

The tinkling of the little silver bells had ended. No longer did the trumpets blare across the Valley of Lhasa, sounding loud and clear in the crisp, thin air. About me was uncanny silence, a silence that should not be. I awakened from my reverie just as the monks in the temple started their deep-toned Litany for the Dead. Dead? Yes! Of course, the Litany for the old monk who had so recently died. Died, after a life-time of suffering, of service to others, of being misunderstood and unhanded.

“What a terrible Kharma he must have had,” I said to myself. “What a wicked person he must have been in his past life to merit such retribution.”

“Lobsang!” Một giọng nói vang lên phía sau tôi như là tiếng sấm xa xa vọng lại. Những cú đánh giáng vào cơ thể co dúm của tôi sau đó, không may thay, không hề xa chút nào. “Lobsang! Con trốn ở đây, thế là thiếu tôn trọng với người anh em đã khuất của chúng ta, ăn đòn này, đòn này nữa!” Đột nhiên những cú đánh cũng như những lời mắng mỏ ngừng lại một cách kỳ lạ. Tôi quay cái đầu đau đớn của mình lại và nhìn lên một dáng người to lớn lừng lững phía trên, tay vẫn còn cầm cây gậy lớn giơ lên.

“Giám thị,” một giọng nói âu yếm vang lên, “Đó là hình phạt khắc nghiệt cho một cậu bé. Cậu ấy đã làm gì để đáng bị như vậy? Cậu ấy báng bổ chùa chiền à? Hay cậu ấy bất kính với tượng Phật? Nói, và giải thích sự độc ác của ngươi đi.”

“Thưa Minh Gia Đại Đức,” vị giám thị hộ pháp than thở, “cậu ta ở đây mơ mộng trong khi đáng lẽ phải cùng tụng Kinh cầu nguyện với các chú tiểu khác.”

“Lobsang!” The voice behind me was like a clap of distant thunder. The blows that rained upon my shrinking body—well—they were not so distant, unfortunately. “Lobsang! You here skulking, showing disrespect to our departed Brother, take that, and that!” Suddenly the blows and the abuse stopped as if by magic. I turned my anguished head round and gazed up at the giant figure towering above me, heavy cudgel still in his upraised hand.

“Proctor,” said a well-loved voice, “that was vicious punishment indeed for a small boy. What has he done to suffer that? Has he desecrated the Temple? Has he shown disrespect to the Golden Figures? Speak, and explain your cruelty.”

“Lord Mingyar Dondup,” whined the tall Proctor of the Temple, “the boy was here day-dreaming when he should have been at the Litany with his fellows.”

Lạt Ma Minh Gia Đại Đức, bản thân Ngài cũng không phải là người nhỏ bé, buồn rầu nhìn chằm chằm vào người đàn ông quận Kham cao hơn hai mét đang đứng trước ngài. Ngài nói nghiêm nghị, “Giám thị, ngươi có thể đi, tự ta giải quyết việc này”. Khi Giám thị kính cẩn cúi lạy rồi bước đi, Thầy tôi, Lạt Ma Minh Gia quay lại: “Lobsang, bây giờ hãy đi cùng về phòng của ta, để con có thể kể cho ta câu chuyện về vô số tội lỗi mà con phải bị trừng phạt nghiêm khắc.” Nói vậy, Ngài dịu dàng cúi xuống đỡ tôi đứng dậy. Trong cuộc đời ngắn ngủi của tôi, chỉ có Ngài là người luôn đối xử tốt với tôi, và tôi không thể cầm được những giọt nước mắt biết ơn và yêu mến.

The Lama Mingyar Dondup, no small man himself, gazed sadly up at the seven-foot Man of Kham standing before him. Firmly the Lama spoke, “You may go, Proctor, I will deal with this myself.” As the Proctor respectfully bowed, and turned away, my Guide, the Lama Mingyar Dondup turned to me, “Now Lobsang, let us go to my room so that you can recount the tale of your numerous well-punished sins.” With that he stooped gently and lifted me to my feet. In my short life no one but my Guide had ever shown me kindness, and I was hard put to keep back tears of gratitude and love.

Ngài quay đi, và chầm chậm bước dọc theo hành lang vắng vẻ. Tôi khiêm nhường đi theo Ngài từng bước, thậm chí háo hức vì biết rằng không có sự bất công nào có thể đến từ người đàn ông vĩ đại này. Ngài dừng lại trước lối vào nhà, quay lại phía tôi và đặt một tay lên vai tôi. “Lobsang, vào đây, con không có tội gì cả, vào đây rồi kể ta nghe về rắc rối này.” Nói rồi, Ngài đẩy tôi đi trước và bảo tôi ngồi xuống. “Đồ ăn, Lobsang, chắc con cũng đang nghĩ đến nó. Chúng ta sẽ ăn và uống trà trong lúc nói chuyện.” Ung dung, Ngài rung chiếc chuông bạc và một người giúp việc đi vào.

Chúng tôi ngồi im lặng cho đến khi thức ăn và đồ uống được mang vào đặt trước mặt, và tôi đang nghĩ nghiêm túc về những lỗi lầm của mình, hầu hết đã bị phát hiện và trừng phạt trước khi nó diễn ra. Một lần nữa giọng nói lại cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi. “Lobsang! Con lại mơ mộng rồi! Thức ăn ở trước mặt con, nhất là con, mà con lại chả nhìn thấy nó.” Giọng nói ân cần, trêu đùa khiến tôi tập trung trở lại và hầu như trong vô thức với tay lấy những chiếc bánh đường ngọt ngào mà khiến tôi rất thèm thuồng. Những cái bánh này đã được đem đến từ Ấn độ xa xôi cho Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhưng vì lòng tốt của Ngài nên tôi đã có thể được thưởng thức.

The Lama turned away and slowly walked up the long deserted corridor. I humbly followed in his footsteps, followed even eagerly, knowing that no injustice could ever come from this great man. At the entrance to his room he stopped, turned to me, and put a hand on my shoulder, “Come along, Lobsang, you have committed no crime, come in and tell me about this trouble.” With that he pushed me before him and bade me be seated. “Food, Lobsang, Food, that also is upon your mind. We must have food and tea while we talk.” Leisurely he rang his silver bell, and an attendant entered.

Until food and drink was placed before us we sat in silence, I thinking of the sureness with which all my offences were found out and punished almost before they were committed. Once again a voice broke into my thoughts. “Lobsang! You are day-dreaming! Food, Lobsang, Food is before you and you, you of all people, do not see it.” The kindly, bantering voice brought me back to attention and almost automatically I reached out for those sweet sugared cakes which so greatly entranced my palate. Cakes which had been brought from far-off India for the Dalai Lama, but which through his kindness were available to me.

Chúng tôi ngồi ăn một lúc, thực ra là chỉ mình tôi ăn, còn Đức Lạt Ma mỉm cười nhân từ với tôi. “Nào, Lobsang,” Ngài nói khi tôi đã có vẻ no bụng, “đầu đuôi câu chuyện là thế nào?”

“Thưa Thầy,” tôi trả lời, “con đang ngẫm nghĩ về nghiệp chướng kinh khủng của nhà sư vừa mất. Ông ấy chắc hẳn phải là người xấu xa lắm trong nhiều kiếp trước. Thế rồi đang suy tư nên con đã quên cả những công việc thờ cúng phải làm, và Ngài Giám Thị đã bắt được trước khi con có thể trốn thoát.”

Ngài cười phá lên, “Lobsang, vậy là con sẽ cố gắng chạy trốn khỏi nghiệp chướng của mình nếu có thể!” Tôi rầu rĩ nhìn Ngài và biết rằng ít ai có thể chạy trốn được các vị Giám thị lực lưỡng, vốn đã chạy nhanh như gió.

“Lobsang, về vấn đề nghiệp quả, sao nó lại có thể bị hiểu sai bởi thậm chí những người trong ngôi chùa này. Ngồi thoải mái đi, ta sẽ nói chuyện với con về vấn đề này lâu đấy.”

Tôi xê dịch một chút và làm ra vẻ “đã thoải mái”. Tôi thích ra ngoài chơi với bạn hơn là ngồi đây nghe thuyết giảng, kể cả bài giảng từ một người vĩ đại như Lạt Ma Minh Gia, bài giảng thì vẫn là bài giảng, còn thuốc dù có hương vị dễ chịu thì vẫn là thuốc.

For some moments more we sat and ate, or rather I ate, and the Lama smiled benevolently upon me. “Now, Lobsang,” he said when I showed signs of repletion, “what is all this about?”

“Master,” I replied, “I was reflecting upon the terrible Kharma of the monk who died. He must have been a very wicked man in many lives past. So thinking, I forgot all about the temple service, and the Proctor came upon me before I was able to escape.”

He burst out with a laugh, “So, Lobsang, you would have tried to escape from your Kharma if you could!” I looked glumly at him, knowing that few could outrun the athletic proctors, so very fleet of foot.

 “Lobsang, this matter of Kharma. Oh how it is misunderstood by some even here in the Temple. Make yourself comfortable, for I am going to talk to you on this matter at some length.”

I shuffled around a bit and made a show of “getting comfortable”. I wanted to be out with the others, not sitting here listening to a lecture, for even from such a great man as the Lama Mingyar Dondup a lecture was a lecture, and medicine with a pleasant taste was still medicine.

“Lobsang, con biết không tất cả điều này, hoặc đáng lẽ phải biết nếu con đã tập trung lắng nghe các thầy của mình (đó là điều ta nghi ngờ), nhưng ta vẫn sẽ nhắc cho con một lần nữa vì ta e rằng con vẫn thiếu sự tập trung.” Nói vậy, Ngài lườm xuyên thấu tôi, rồi tiếp tục. “Chúng ta đến thế giới này giống như đi đến trường vậy. Chúng ta đến để học bài. Trong buổi đi học đầu tiên chúng ta ở lớp thấp nhất bởi vì chúng ta chưa biết gì và cũng chưa học được gì. Đến cuối khóa chúng ta phải trải qua bài thi sát hạch, hoặc là đỗ, hoặc là trượt. Nếu đỗ chúng ta sẽ được lên lớp cao hơn sau kỳ nghỉ hè. Nếu trượt có thể chỉ một môn thôi, thì chúng ta vẫn được lên lớp, và ở đó chúng ta vẫn phải học lại môn đã bị trượt.

Ngài nói với tôi bằng một thứ ngôn ngữ rất dễ hiểu. Tôi biết tất cả thế nào là kỳ thi, là trượt môn và phải lên lớp, đua tranh với những cậu bé lớn hơn, và đồng thời cũng phải học cả trong những lúc gọi là thời gian nghỉ ngơi của mình, học dưới ánh mắt như diều hâu của thầy Lạt Ma già mốc meo, một người cổ xưa đến mức quên cả thời niên thiếu của chính mình.

“You know all this, Lobsang, or should if you have paid any attention to your teachers (which I doubt!) but I will remind you again as I fear that your attention is still somewhat lacking.” With that he gave me a piercing glance and resumed. “We come to this Earth as to a school. We come to learn our lessons. In our first attendance at school we are in the lowest class because we are ignorant and as yet have learned nothing. At the end of our term we either pass our examinations or fail them. If we pass we go on to a higher class when we return from the school vacation. If we fail, then we return to the same class as that which we left. If we fail in perhaps one subject only we may be permitted to go on to the higher class and there also study the subject of our failure.”

This was speaking to me in language which I well understood. I knew all about examinations, and failing in a subject and having to go on to a higher class, competing with bigger boys, and at the same time studying in what should have been my free time, studying under the eagle eye of some moldy old lama teacher, one who was so ancient that he forgot all about his own boyhood days.

Có một tiếng động lớn, và tôi nhảy dựng lên, mạnh đến nỗi suýt rời khỏi mặt đất. “À, Lobsang, vậy là cuối cùng con đã có phản ứng,” Ngài vừa cười vừa nói và đặt lại chiếc chuông bạc Ngài vừa đánh rơi phía sau tôi; “Ta đã nhiều lần nói với con, nhưng xem ra con vẫn còn nghĩ lan man lắm.”

“Con xin lỗi, thưa Lạt Ma tôn kính,” tôi nói, “Nhưng lúc đó con đang nghĩ rằng bài giảng của Thầy thật rõ ràng quá.”

Vị Latma cố nhịn cười và nói tiếp. “Chúng ta đến thế giới này giống như những đứa trẻ đến lớp học. Nếu trong cuộc đời chúng ta làm tốt và hiểu được rằng lý do gì đã đưa mình đến đây, thì ta sẽ tiến bộ nhanh chóng và đưa cuộc sống của mình lên mức cao hơn. Nếu ta không hiểu được bài học của mình, ta sẽ đầu thai lại với hoàn cảnh và thân xác gần như y hệt. Trong một số trường hợp, một người, ở một kiếp trước, có nhiều hành vi độc ác với người khác. Anh ta sẽ phải trở lại trái đất và cố gắng chuộc lại lỗi lầm của mình. Anh ta phải đầu thai lại và thể hiện lòng tốt của mình với người khác. Nhiều nhà cải tạo vĩ đại nhất trong đời này đã là những kẻ phạm tội trong quá khứ. Như vậy bánh xe cuộc đời cứ quay tròn, đem sự giàu sang ban đầu cho người này, rồi mang nghèo khó cho người khác, một người ăn xin của ngày hôm nay có thể sẽ là hoàng tử của ngày mai, và cứ thế tiếp tục từ đời này sang đời khác.”

There was a crash, and I jumped so much with fright that I almost left the ground. “Ah, Lobsang, so we did get a reaction after all,” said my Guide as he laughingly replaced the silver bell he had dropped behind me; “I spoke to you on a number of occasions, but you were wandering far afield.”

“I am sorry, Honourable Lama,” I replied, “but I was thinking how clear your lecture was.”

The Lama stifled a smile and continued. “We come to this Earth as do children to a schoolroom. If, in our lifetime, we do well and learn that which caused us to come, then we progress further and take up life in a higher state. If we do not learn our lessons we come back to almost the same type of body and conditions. In some cases a man, in a past life, will have shown much cruelty to others. He must come back to this Earth and try to atone for his misdeeds. He must come back and show kindness to others. Many of the greatest reformers in this life were offenders in the past. So the Wheel of Life revolves, bringing first riches to one, and then poverty to another, and the beggar of today may be the prince of tomorrow, and so it continues from life to life.”

“Nhưng thưa Lạt Ma tôn kính,” tôi nói xen vào, “như thế nghĩa là nếu một người ăn xin hôm nay chỉ có một chân, thì có nghĩa là kiếp trước anh ta đã phải cắt chân của một người khác rồi ạ?”

“Không, Lobsang, không phải như vậy. Nó có nghĩa là con người đó cần phải nghèo đói, cần phải chịu đựng sự mất mát một phần cơ thể để anh ta có thể hiểu được bài học cuộc đời. Nếu con phải học làm tính con sẽ phải dùng bảng đen và bàn tính. Nếu con học điêu khắc con phải dung dao và khúc gỗ. Con phải dùng công cụ phù hợp sẵn có. Như vậy với hình dạng cơ thể ta có, cơ thể và hoàn cảnh sống của chúng ta là những thứ phù hợp nhất cho nhiệm vụ mà chúng ta phải vượt qua.

“But Honourable Lama,” I interjected, “does it mean that if a man is now a beggar with one leg, he must have cut off the leg of some other person in another life?”

“No, Lobsang, it does not. It means that the man needed to be poor, and needed to suffer the loss of one leg so that he could learn his lesson. If you have to study figures you take your slate and your abacus. If you are going to study carving you take a knife and a piece of wood. You take tools suitable for the task in hand. So it is with the type of body we have, the body and our life circumstances are the most suitable for the task we have to overcome.”

Tôi nghĩ về vị sư già vừa chết, ông luôn luôn than thở về “nghiệp chướng” của mình và tự hỏi ông ta đã làm gì để phải sống một cuộc sống khốn khổ như vậy. “À, đúng đấy, Lobsang,” đọc được suy nghĩ của tôi Thầy nói, “những người thiếu minh triết thì luôn luôn than vãn về nghiệp chướng. Họ không nhận thấy rằng đôi khi họ là nạn nhân của những hành động xấu xa của những người khác và mặc dù hiện tại họ đang phải chịu bất công, nhưng kiếp sau họ sẽ được bù đắp tất cả. Lobsang, ta phải nói lại với con rằng con không thể đánh giá sự phát triển của một con người bằng hiện trạng của anh ta trong cuộc đời này, và con càng không thể lên án anh ta là xấu xa bởi vì anh ta đang khó khăn. Con cũng không nên lên án họ, vì cho đến khi con có đủ bằng chứng, cái mà con không thể có trong đời này, con sẽ không thể phán xét đúng được.”

I thought of the old monk who had died, he was always bewailing his “bad Kharma”, wondering what he had done to deserve such a hard life. “Ah, yes, Lobsang,” said my Guide, reading my thoughts, “the unenlightened always bemoan the workings of Kharma. They do not realize that they are sometimes the victims of the bad acts of others, and though they suffer unjustly now, yet in a later life they will have full recompense. Again I say to you, Lobsang, you cannot judge a man’s evolution by his present status on Earth, nor can you condemn him as evil because he seems to be in difficulties. Nor should you condemn, for until you have all the facts, which you cannot have in this life, you have no sound judgment.”

Tiếng kèn vang vọng khắp các sảnh và hành lang đã cắt ngang buổi nói chuyện của chúng tôi, triệu tập chúng tôi về buổi lễ tối. Tiếng kèn trong chùa à? Hay đó là tiếng cồng nặng nề? Dường như tiếng cồng ở trong đầu tôi, nổ đùng đùng, xốc tôi dậy, đưa tôi trở lại với cuộc sống trên trái đất. Tôi mở mắt một cách mệt mỏi. Xung quanh giường của tôi là rèm quây và một bình oxy dựng bên cạnh. “Bác sỹ, cậu ấy tỉnh rồi,” một người nói. Có tiếng bước chân và tiếng sột soạt vén chiếc rèm được hồ cứng. Tôi nhìn thấy một khuôn mặt đỏ bừng. “Ái chà!” vị bác sỹ người Mỹ nói. “Vậy là cậu đã sống lại rồi! Cậu dính các thương tích kinh khủng thật đấy!” Tôi thất thần nhìn ông ấy.

“Vali của tôi đâu?” tôi hỏi, “chúng vẫn ổn chứ?”

“Không, có kẻ đã lấy đi rồi và cảnh sát không bắt được hắn.”

The voice of the temple trumpets echoing through the halls and corridors summoned us from our talk to attend the evening service. Voice of the temple trumpet? Or was it a deep-toned gong? It seemed that the gong was in my head, booming away, jerking me, bringing me back to life on Earth. Wearily I opened my eyes. Screens were around my bed and an oxygen cylinder stood nearby. “He is awake, Doctor,” said a voice. Shuffling of feet, and the rustle of well-starched cloth. A red face came into range of my vision. “Ah!” said the American doctor. “So you have come back to life! You sure got yourself smashed up!” I gazed blankly at him.

“My suitcases?” I asked, “Are they all right?”

“No, a guy made off with them and the police cannot find him.”

Chiều muộn, cảnh sát đến bên giường tôi để lấy thông tin. Vali của tôi đã bị cướp. Người đàn ông lái chiếc xe đâm vào tôi, khiến tôi bị ngã và bị thương nặng không có bảo hiểm. Ông ta là người thất nghiệp da đen. Một lần nữa tôi lại bị gãy tay trái, gãy bốn xương sườn và xương cả hai bàn chân. “Một tháng nữa cậu sẽ được xuất viện,” vị bác sỹ vui vẻ nói. Thế rồi tôi bị viêm cả hai bên phổi. Tôi phải nằm viện mất chín tuần. Ngay khi tôi có thể đứng dậy, tôi đã bị yêu cầu thanh toán.” Chúng tôi thấy có 260 đô la trong ví của anh, chúng tôi sẽ lấy 250 đô la cho thời gian anh ở đây.” Kinh ngạc, tôi nhìn người đàn ông và nói. “Nhưng tôi chưa có việc làm, chưa có gì cả, làm sao tôi có thể sống được với 10 đô la?”

Người đàn ông nhún vai, “Vậy anh phải đi kiện gã da đen kia. Anh đã được điều trị và chúng tôi phải được thanh toán. Trường hợp này không liên quan gì đến chúng tôi-hãy kiện cái người đã gây tai nạn cho anh.”

Later in the day the police came to my bedside seeking information. My cases had been stolen. The man whose car had knocked me down and gravely injured me was not insured. He was an unemployed Negro. Once again I had my left arm broken, four ribs broken, and both feet smashed. “You will be out in a month,” cheerily said the doctor. Then double pneumonia set in. For nine weeks I lingered in the hospital. As soon as I was able to get up I was asked about payment. “We found two hundred and sixty dollars in your wallet, we shall have to take two hundred and fifty for your stay here.” I looked at the man aghast. “But I shall have no job, nothing,” I said. “How shall I live on ten dollars?”

The man shrugged his shoulders. “Oh you will have to sue the Negro. You have had treatment and we have to be paid. The case is nothing to do with us—make an action against the man who caused the trouble.”

Tôi run rẩy bước xuống bậc thềm, loạng choạng đi trên phố, chỉ có 10 đô la, không hơn, không việc làm, không có nơi nào để ở. Sống thế nào đây, đó là cả một vấn đề. Anh lao công giơ ngón cái chỉ, “Trên phố có Văn phòng Tuyển dụng việc làm đấy, cậu thử đến đó xem.” Tôi gật đầu như thằng ngốc rồi đi lang thang tìm kiếm hy vọng duy nhất của mình. Trên con phố nhỏ tồi tàn, tôi thấy một tấm biển xấu xí có ghi “Việc làm”. Leo lên văn phòng tầng ba quả là quá sức đối với tôi. Thở hổn hển, tôi bám vào lan can trên cùng, đứng nghỉ một lúc cho đến khi thấy khá hơn.

Shakily I went down the stairs. Tottered into the street. No money, other than ten dollars. No job, nowhere to live. How to live, that was the problem. The janitor jerked his thumb, “Up the street, Employment Agency there, go see them.” Nodding dumbly, I wandered off, looking for my only hope. In a shoddy side-street I saw a battered sign, “Jobs”. The climb to the third floor office was almost more than I could manage. Gasping, I clung to the rail at the top until I felt a little better.

“Cậu kia, cậu cần gì?” một người đàn ông răng vàng, đang ngậm một điếu xì gà tơi tả giữa đôi mồi dày, hỏi. Ông ta nhìn tôi từ đầu đến chân. “Tôi đoán là cậu vừa ra khỏi trại giam hoặc bệnh viện.” Ông ta nói. Tôi đã kể cho ông ta nghe về những gì đã xảy ra với tôi, rằng tôi đã bị mất đồ và tiền như thế nào. “Vậy là cậu muốn kiếm tiền thật nhanh”, ông ta nói, với lấy một cái thẻ và điền một vài thông tin vào đó. Ông ta đưa nó cho tôi và bảo tôi mang đến một khách sạn có cái tên rất nổi tiếng, một trong những khách sạn nổi tiếng! Tôi quay đi, tiêu những xu quí giá để mua vé xe buýt.

“Hai mươi đô la một tuần và một bữa ăn mỗi ngày.” Quản lý nhân sự nói. Thế là để được “Hai mươi đô la một tuần và một bữa ăn mỗi ngày” tôi phải rửa cả núi bát đĩa bẩn thỉu và lau những bậc thang vô tận trong 10 tiếng mỗi ngày.

“Kin ye scrub, Bud?” said the yellow-toothed man, rolling a ragged cigar between his thick lips. He eyed me up and down. “Guess you have just come out of the penitentiary or the hospital,” he said. I told him all that had happened, how I had lost my belongings and my money. “So you want some bucks mighty fast,” he said, reaching for a card and filling in some details. He gave it to me, and told me to take it to a hotel with a very celebrated name, one of the hotels! I went, spending precious cents on bus fares.

“Twenty dollars a week and one meal per day,” said the Staff Manager. So, for “twenty dollars and one meal per day” I washed mountains of filthy plates, and scrubbed endless stairs for ten hours each day.

Hai mươi đô la một tuần và một bữa ăn. Suất ăn của nhân viên không được chất lượng như cho khách. Nó bị giám sát và kiểm tra chặt chẽ. Lương của tôi thì bèo bọt đến nỗi không đủ để chi trả phòng trọ. Nhà tôi là công viên, bên dưới những mái vòm và chân cầu, phải học cách di chuyển trong đêm trước khi viên cảnh sát khu vực đi tuần với dùi cui dùng ban đêm cùng với câu nói cục cằn “Có cút ngay không?”. Tôi học cách nhét giấy báo vào trong áo để tránh những cơn gió lạnh quất vun vút vào người khi nó quét qua đường phố vắng vẻ của New york vào ban đêm.

Tôi có một bộ đồ duy nhất, bị bào mòn vì di chuyển nhiều và vấy bẩn vì làm việc, và tôi không có đồ lót để thay. Để giặt đồ tôi phải vào nhà vệ sinh nam khóa trái cửa lại, cởi quần lót rồi mặc quần ngoài vào, và giặt chúng trong chậu rửa mặt rồi phơi khô trên ống hơi, cho đến khi tôi có thể mặc lại được tôi mới dám ra ngoài. Đôi giầy của tôi bị thủng lỗ ở dưới đế, tôi đã dán tạm bằng bìa giấy, đồng thời luôn để ý xem trong thùng rác có đôi giầy của vị khách nào đó bỏ nào khá hơn đi không. Nhưng cũng có rất nhiều đôi mắt sắc sảo và những cánh tay nhiệt tình lục soát thùng rác của khách trước khi nó đến tay tôi. Tôi sống và làm việc với một bữa mỗi ngày và uống thật nhiều nước. Dần dần tôi cũng đã tích cóp mua được thêm quần áo, một bộ vét và một đôi giày cũ. Sau một thời gian tôi cũng tiết kiệm được một trăm đô la.

Twenty dollars a week—and one meal. The meals served to the staff were not of the same quality as those served to the guests. Staff meals were rigidly supervised and checked. My wages were so poor that I could not afford a room. I made my home in the parks, beneath arches and bridges, and learned to move at night before the Cop on the Beat came along with his prodding night stick and his gruff “Getamoveonwillya?” I learned to stuff my clothes with newspaper to keep out the bitter winds that swept New York’s deserted streets by night. My one suit of clothes was travel-worn and work-stained, and I had no change of underwear. To wash my clothing I locked myself in the Men’s Room, removed my underwear, put my trousers on again, and washed my clothing in a basin, drying them on the steam pipes after, for until I could wear them I could not go out. My shoes had holes in the soles, and I patched them with cardboard, while watching the garbage bins for any better pair which a guest might throw out. But there were many keen eyes and many eager hands to examine the “guest-trash” before it reached me. I lived and worked on one meal a day, and plenty of water. Gradually I accumulated a change of clothing, a second-hand suit, and second-hand shoes. Slowly I accumulated a hundred dollars.

Một hôm khi đang làm việc cạnh cửa phòng dịch vụ, tôi nghe thấy hai người khách nói chuyện với nhau. Họ đang trao đổi về sự thất bại của một quảng cáo để thu hút một loại người mà họ đang cần. Tôi làm chậm dần, chậm dần. “Có kiến thức về châu Âu, có giọng nói tốt, được đào tạo phát thanh viên…”. Không hiểu làm sao, tôi đã lao ra cửa và kêu lên, “Tôi có thể đáp ứng tất cả các yêu cầu đó!” Hai người đàn ông ngẩn người nhìn tôi rồi phá lên cười. Người Phục Vụ Trưởng cùng một bồi bàn khác lao về phía trước với vẻ mặt giận dữ. “Ra ngay!” Ông ta vừa nói vừa thô bạo túm lấy cổ tôi khiến chiếc áo khoác cũ kỹ của tôi rách toạc từ trên xuống dưới. Tôi quay lại và ném hai mảnh áo vào mặt ông ta. Tôi hét lên, “Hai mươi đô la một tuần không cho ông cái quyền cư xử với ai như vậy!” Một trong hai người đàn ông nhìn tôi kinh ngạc, “Hai mươi đô la một tuần, cậu vừa nói thế à?”

One day I heard two guests talking as I worked near a service door. They were discussing the failure of an advertisement to bring in a reply from the type of man they wanted. I worked slower and slower. “Knowledge of Europe. Good voice, radio training . . .” Something happened to me, I dashed round the door and exclaimed, “I can claim all those!” The men looked at me dumbfounded and then broke into yells of laughter. The Chief Waiter and an under waiter dashed forward, utter fury on their faces. “Out!” said the Chief Waiter as he grabbed violently at my collar, ripping my poor old jacket from top to bottom. I turned on him and threw the two halves of my jacket in his face: “Twenty dollars a week does not enable you to speak to a man like that!” I said fiercely. One of the two men looked at me in hushed horror, “Twenty dollars a week, you said?”

“Vâng, thưa ngài, đó là tất cả những gì tôi được trả và một bữa ăn mỗi ngày. Tôi ngủ ở công viên, tôi bị cảnh sát đuổi hết chỗ nọ đến chỗ kia. Tôi đã đến ‘Miền đất hứa’ này và cũng đúng ngày đó tôi bị ô tô đâm và khi tôi bất tỉnh có người đã cướp hết những gì tôi có. Bằng chứng ư, thưa ngài? Tôi sẽ đưa ông bằng chứng để ông kiểm tra câu chuyện của tôi!” Quản lý tầng vội vã chạy qua chỗ chúng tôi, vặn tay vào nhau và gần như khóc. Chúng tôi cùng vào văn phòng của ông. Những người khác thì ngồi, còn mình tôi đứng. Người đàn ông có tuổi trong hai người gọi điện đến bệnh viện và một lúc sau câu chuyện của tôi đã được sáng tỏ đến từng chi tiết. Quản lý tầng ấn hai mươi đô la vào tay tôi và nói “Hãy đi mua một cái áo mới, rồi biến đi!” Tôi ấn trả lại tiền vào bàn tay mũm mĩm của ông ta. Tôi nói “Ông cầm lấy. Ông sẽ cần nó hơn tôi đấy!” Tôi quay đi và khi đến cửa thì có một bàn tay giang ra, có ai nói “Dừng lại!”. Người đàn ông có tuổi nhìn thẳng vào mắt tôi. “Tôi nghĩ có thể cậu phù hợp với chúng tôi. Chúng tôi sẽ xem xét. Hãy đi Schenectady vào ngày mai. Đây là danh thiếp của tôi.” Tôi quay đi. “Đợi đã – đây là năm mươi đô la để giúp cậu tới đó.”

“Yes, sir, that is what I am paid, and one meal a day. I sleep in the parks, I am chased from place to place by the police. I came to this ‘Land of Opportunity’ and on the day after I landed a man ran me down with his car, and when I was unconscious an American robbed me of all I had. Proof? Sir? I will give you proof, then you check my story!” The Floor Manager rushed up, wringing his hands and almost weeping. We were ushered into his office. The others sat down, I was left standing. The older of the two men phoned the hospital, and after some delay, my story was authenticated in every detail. The Floor Manager pressed a twenty-dollar bill on me, “Buy a new jacket,” he said, “and clear out!” I pressed the money back into his flabby hands. “You take it,” I replied, “You will need it more than I.” I turned to leave and as I reached the door a hand shot out and a voice said “Stop!” The older man looked me straight in the eyes. “I think that you may suit us. We will see. Come to Schenectady tomorrow. Here is my card.” I turned to go. “Wait—here are fifty dollars to see you there.”

“Thưa ngài,” tôi nói và từ chối món tiền, “Tôi sẽ tự thân đến đó. Tôi sẽ không nhận tiền cho đến khi ngài thấy chắc chắn rằng tôi phù hợp với các yêu cầu của ngài, bởi vì tôi không có khả năng trả lại tiền nếu ngài không muốn thuê tôi.” rồi quay gót rời khỏi căn phòng. Tôi lấy số đồ ít ỏi của mình trong tủ đồ ở phòng nhân viên và bước ra ngoài phố. Không có nơi nào để đi ngoài chiếc ghế ở công viên. Không có mái che, không có ai để nói lời tạm biệt. Một cơn mưa dai dẳng trút xuống thấm đẫm vào người. May mắn thay, tôi giữ khô được “bộ vest mới” của mình bằng cách ngồi lên nó. Sáng ra, tôi làm một cốc café, một chiếc bánh kẹp và tìm thấy phương tiện rẻ nhất để đi từ New York đến Schenectady là xe buýt. Tôi mua vé và ngồi vào ghế. Có hành khách nào đó đã để lại tờ báo Morning Times ở trên ghế, vậy là tôi đọc nó để đỡ trăn trở suy nghĩ về tương lai rất mơ hồ của mình. Chiếc xe chạy bon bon trên đường, qua từng cây số. Đến chiều tôi đã tới thành phố. Tôi đến nhà tắm công cộng, làm cho mình sạch sẽ sáng sủa nhất có thể, mặc bộ quần áo mới rồi bước ra ngoài.

“Sir,” I said, refusing the money offered, “I will get there under my own steam. I will not take money until you are sure that I will meet your requirements, for I could not possibly pay you back if you do not want me.” I turned and left the room. From my locker in the Staff Room I took my meager belongings and walked out in the street. I had nowhere to go but to a seat in the park. No roof, no one to whom to say good-bye. In the night the pitiless rain came down and soaked me to the skin. By good fortune I kept my “new suit” dry by sitting on it. In the morning I had a cup of coffee and a sandwich and found that the cheapest way to travel from New York City to Schenectady was by bus. I bought my ticket and settled in a seat. Some passenger had left a copy of the Morning Times on a seat, so I read through it to keep me from brooding on my very uncertain future. The bus droned on, eating up the miles. By afternoon I was in the city. I went to the public baths, made myself as smart as possible, put on my clean clothes and walked out.

Tại đài phát thanh, hai người đàn ông đang chờ tôi. Trong vòng mấy tiếng đồng hồ tra vấn tôi bằng hàng loạt câu hỏi dồn dập. Hết người này đến người khác thay phiên nhau vào ra liên tục. Cuối cùng họ đã có được toàn bộ câu chuyện của tôi. “Cậu nói giấy tờ của cậu để ở chỗ người thân tại Thượng Hải phải không?” người đàn ông có tuổi hơn hỏi. “Chúng tôi sẽ nhận cậu dưới dạng thử việc và sẽ điện đến Thượng Hải yêu cầu họ gửi giấy tờ của cậu đến đây. Ngay khi chúng tôi có được giấy tờ này cậu sẽ được nhận chính thức. Một trăm mười đô la một tuần; chúng ta sẽ thảo luận thêm khi có giấy tờ. Hãy bảo họ gửi bằng chi phí của chúng tôi.”

Người đàn ông thứ hai nói, “Tôi nghĩ anh ta nên được ứng trước tiền lương.”

“Hãy tạm ứng cho cậu ấy một tháng lương.” Người đàn ông thứ nhất nói. “Hãy để cậu ấy bắt đầu làm việc vào ngày kia.”

At the radio studios the two men were waiting. For hour after hour they plied me with questions. Man after man came in and went out again. At last they had my whole story. “You say you have papers stored with a friend in Shanghai?” said the senior man. “Then we will engage you on a temporary basis and will cable to Shanghai to have your things sent on here. As soon as we see these papers, you will be on a permanent footing. A hundred and ten dollars a week; we will discuss it further when we see those papers. Have them sent at our expense.”

The second man spoke, “Sure guess he could do with an advance,” he said.

“Give him a month in advance,” said the first man. “Let him start the day after tomorrow.”

Vậy là bắt đầu giai đoạn kỳ hạnh phúc trong đời. Tôi thích công việc này, và tôi cũng làm mọi người hoàn toàn hài lòng. Trong thời gian này giấy tờ của tôi, quả cầu pha lê cổ kính và một vài thứ khác đã được gửi đến. Hai người đàn ông kiểm tra mọi thứ, và tăng lương cho tôi thêm mười lăm đô la mỗi tuần. Tôi nghĩ cuộc sống đang bắt đầu mỉm cười với mình.

Sau một thời gian tôi cũng đã tiết kiệm được phần lớn tiền lương, và bắt đầu cảm giác rằng mình đang không đi đến đâu, rằng tôi đang chưa đẩy được tiến độ sứ mệnh của mình trong đời. Người đàn ông có tuổi hơn đến giờ đã rất mến tôi, và tôi đã đến gặp ông ấy để thảo luận vấn đề này, tôi nói với ông ta rằng sẽ rời đi khi nào ông tìm được một người phù hợp để thay thế. Vậy là tôi ở lại đó thêm ba tháng nữa.

Giấy tờ của tôi được gửi từ Thượng Hải, trong đó có quyển hộ chiếu do chính quyền Anh ở tô giới cấp cho tôi. Trong những ngày chiến tranh xa xưa đó, người Anh rất thích tôi vì tôi đã rất có ích cho họ. Còn bây giờ, phải, bây giờ thì họ nghĩ sẽ không khai thác thêm được gì từ tôi nữa. Tôi cầm cuốn hộ chiếu và các giấy tờ khác đến Sứ quán Anh ở New York, và sau rất nhiều rắc rối và chờ đợi, cuối cùng tôi đã lấy được trước tiên là visa và rồi tiếp theo là giấy phép làm việc ở Anh.

So began a happy period in my life. I liked the work, and I gave complete satisfaction. In the course of time my papers, my age-old crystal, and a very few other things arrived. The two men checked everything, and gave me a fifteen dollar a week raise. Life was beginning to smile upon me, I thought.

After some time, during which I saved most of my money, I began to experience the feeling that I was getting nowhere, I was not getting on with my allotted task in life. The senior man was very fond of me now, and I went to him and discussed the problem, telling him that I would leave when he found a suitable replacement for me. For three months more I stayed.

My papers had come from Shanghai, among them a passport issued by the British authorities at the British Concession. During those far-off war days the British were very fond of me, for they made use of my services. Now, well, now they think they have no more to gain. I took my passport and other papers to the United Kingdom Embassy in New York, and after a lot of trouble and much delay, managed to obtain first a visa and then a work permit for England.

Cuối cùng cũng đã có người thay thế, và tôi ở lại thêm hai tuần để chỉ dẫn chi tiết cho anh ta rồi tôi mới ra đi. Nước Mỹ có lẽ là nơi duy nhất có đặc điểm là, nếu biết cách, một người có thể đi hầu như tất cả mọi nơi miễn phí. Tôi đọc nhiều báo khác nhau cho đến khi tôi thấy dưới tiêu đề “Vận tải” có dòng chữ sau:

“California, Seatle, Boston, New York, miễn phí xăng, gọi số 000000 XXX Vận Chuyển Xe.”

Các hãng ở Mỹ muốn giao ô tô đến khắp nơi trên lục địa. Nhiều lái xe muốn di chuyển, vậy một cách vừa tốt vừa rẻ tiền cho những người này là liên hệ với hãng giao ô tô. Một khi đã vượt qua một bài kiểm tra kỹ năng lái xe đơn giản, người ta sẽ được cung cấp một vài chiếc vé xăng để đổ tại một vài trạm nhất định trên đường đi.

At last a replacement for me was obtained, and I stayed two weeks to “show him the ropes”, then I left. America is perhaps unique in that a person who knows how, can travel almost anywhere free. I looked at various newspapers until I saw, under “Transportation”, the following:

“California, Seattle, Boston, New York.

Gas free, Call 000000 XXX Auto Drive-away.”

Firms in America want cars delivered all over the continent. Many drivers want to travel, so a good and cheap method is for the would-be driver to get in touch with the auto delivery firm. On passing a simple driving test one is then given gas (petrol) vouchers for certain selected filling stations on the route.

Tôi gọi đến XXX Vận Chuyển Xe và nói rằng tôi muốn lái xe đến Seatle. “Không khó chút nào” một người giọng Ai-len nói. “Tôi đang tìm một lái xe giỏi để lái chiếc Lincoln đến đó. Lái thử một vòng xem cậu giỏi thế nào.” Khi tôi lái xe ông ấy đã nói với tôi rất nhiều điều bổ ích. Ông ta có vẻ như rất thích tôi, ông ấy nói, “Tôi đã nhận ra giọng cậu, cậu là một phát thanh viên.” Tôi xác nhận điều đó. Ông ta nói “Tôi có một chiếc đài sóng ngắn vẫn dùng để kết nối với quê hương. Nó bị hỏng và không nhận được sóng ngắn nữa. Người ở đây không thông thạo với loại đài đó, cậu có không?”

Tôi nói với ông ta rằng tôi sẵn sàng xem cái đài đó, và ông ta mời tôi về nhà vào buổi tối, thậm chí còn cho tôi mượn chiếc xe để tôi đến đó. Người vợ Ai-len của ông ấy đặc biệt tử tế, và họ gợi cho tôi một tình yêu với Ailen, một tình yêu tràn trề thêm khi sau này tôi đến đó sinh sống.

I called on the XXX Auto Drive-away and said I wanted to drive a car to Seattle. “No difficulty at all, at all,” said the man with the Irish brogue. “I am looking for a good driver to take a Lincoln there. Drive me round, let’s see how you shape.” As I drove him round he told me of various useful matters. He seemed to have taken quite a liking to me, then he said, “I recognized your voice, you were an Announcer.” This I confirmed. He said, “I have a short-wave radio which I use to keep in touch with the Old Country. Something wrong with it, it won’t get the short waves any more. The local men do not understand this type of radio, do you?”

I assured him that I would have a look at it and he invited me to his home that evening, even lending me a car with which to get there. His Irish wife was exceptionally pleasant, and they left within me a love for Ireland which became intensified when I went there to live.

Chiếc đài này là một mẫu rất nổi tiếng của Anh, chiếc đài có nhãn hiệu Eddystone đặc biệt tốt không loại nào sánh được. Vận may đã mỉm cười với tôi. Người đàn ông Ai-len nhặt một cuộn dây có phích cắm lên và tôi quan sát cách ông ấy cầm dây. “Cho tôi xem cuộn dây, ông có kính lúp không?” Tôi nói. Ông ta đưa tôi, và sau khi kiểm tra nhanh tôi thấy rằng vì ông ấy không biết sử dụng, nên đã làm đứt sợi dây dẫn từ kim ra. Tôi cho ông ấy xem. “Ông có que hàn và máy hàn không?” Tôi hỏi. “Tôi không có nhưng hàng xóm có”. Ông ấy chạy ào đi rồi quay về với que hàn và máy hàn. Chỉ mất vài phút để hàn lại cái dây – và cả hệ thống đã hoạt động. Chỉ cần điều chỉnh thêm một chút nữa là cái đài đã hoạt động tốt hơn hẳn. Ngay lúc đó chúng tôi nghe được đài BBC ở Luân đôn, Anh.

The radio was a very famous English model, an exceptionally fine Eddystone which has no peer. Fortune smiled upon me. The Irishman picked up one of the plug-in coils and I saw how he held it. “Let me have that coil,” I said, “and have you a magnifying glass?” He had, and a quick examination showed me that in his incorrect handling of the coil he had broken a wire free from one of the pins. I showed it to him. “Have you a soldering iron and solder?” I asked. No, but his neighbour had. Off he dashed, to return with a soldering iron and solder. It was the work of minutes to resolder the wire—and the set worked. Simple little adjustments to the trimmers and it worked better. Soon we were listening to the B.B.C. in London, England.

“Tôi đã định gửi cái đài về Anh để sửa,” ông ấy nói. “Nhưng bây giờ tôi sẽ phải làm gì đó cho cậu. Ông chủ xe Lincoln muốn nhân viên của hãng chúng tôi đưa nó về cho ông ấy ở Seatle. Ông ta rất giàu. Tôi sẽ ghi tên cậu vào bảng lương và cậu sẽ được thanh toán. Chúng tôi sẽ trả cậu tám mươi đô la và đòi ông ấy một trăm hai mươi đô la. Cậu có làm không?” Có làm không à? Dĩ nhiên rồi, tôi chả thấy có vấn đề gì cả.

Tôi bắt đầu công việc vào sáng thứ hai. Pasadena là địa danh đầu tiên mà tôi phải đến. Tôi muốn biết chắc chắn rằng anh kỹ sư trên giấy tờ của tôi thực sự không có người thân nào. New York, Pittsburgh, Columbus, Kansas City, con đường cứ kéo dài ra. Tôi không cần phải vội vàng nên cho chuyến đi kéo dài tới một tuần. Ban đêm tôi ngủ trong xe để tiết kiệm tiền khách sạn, tạt vào bên đường bất cứ chỗ nào thấy phù hợp. Chẳng mấy chốc tôi đã đến chân đồi American Rockies, hít thở không khí trong lành, thậm chí càng dễ chịu hơn khi chiếc xe cứ leo lên cao dần và cao dần. Cả ngày tôi nán lại đây giữa những dãy núi, rồi sau đó tôi chạy đến Pasadena. Những câu hỏi tỉ mỉ cũng không thể biết rằng vị kỹ sư này có người thân nào không. Anh ta có vẻ đã là một dạng người khó tính mà chỉ thích ở một mình thay vì giao lưu với người khác.

“I was going to send the radio back to England to be put right,” said the Irishman. “Now I’m going to do something for you. The owner of the Lincoln wanted one of our firm’s drivers to take it to him in Seattle. He is a rich man. I am going to put you on our payroll so you can get paid. We will give you eighty dollars and we will charge him a hundred and twenty. Done?” Done? Most certainly, it suited me just fine.

On the following Monday morning I started off. Pasadena was my first destination. I wanted to make sure that the Ship’s Engineer whose papers I had used really had no relatives. New York, Pittsburgh, Columbus, Kansas City, the miles mounted up. I did not hurry, I allowed a week for the trip. By night I slept in the big car to save hotel expenses, pulling off the road wherever I thought suitable. Soon I was at the foot-hills of the American Rockies, enjoying the better air, enjoying it even more as the car climbed higher and higher. For a whole day I lingered here in the mountainous ranges, and then I drove off to Pasadena. The most scrupulous enquiries failed to reveal that the Engineer had any relatives. He seemed to have been a morose sort of man who preferred his own company to that of any other person.

Tôi đã chạy xe qua Công viên quốc gia Yosemite, Crater Lake ở Portland và cuối cùng là Seatle. Tôi đưa xe vào garage, tại đó nó được kiểm tra kỹ lưỡng, tra dầu mỡ và rửa sạch sẽ. Thế rồi vị quản lý garage gọi tôi và nói, “Đi nào, ông ấy muốn chúng ta mang xe đến chỗ ông ấy.” Tôi lái chiếc Lincoln còn vị quản lý lái một chiếc xe khác để chúng tôi có xe quay về. Trên lối đi rộng vào một ngôi nhà lớn, ba người đàn ông xuất hiện. Vị quản lý rất cung kính với người đàn ông có khuôn mặt lạnh lùng là người mua chiếc xe. Hai người đàn ông đi cùng là những kỹ sư về máy móc, họ sẽ kiểm tra kỹ lưỡng chiếc xe. “Chiếc xe được lái rất cẩn thận”, vị kỹ sư trưởng nói, “ông có thể nhận chiếc xe này với sự yên tâm tuyệt đối.”

Người đàn ông mặt lạnh trịnh thượng gật đầu với tôi. Ông ta nói, “Đi vào phòng đọc sách của tôi, tôi sẽ thưởng cậu một trăm đô la, chỉ cho riêng cậu thôi, vì đã lái chiếc xe rất cẩn thận.”

“Ôi, anh bạn!” vị quản lý sau đó nói với tôi, “Ông ta hào phóng quá, anh đúng là ăn được một món hời đó.”

Through the Yosemite National Park I drove. Crater Lake National Park, Portland, and finally Seattle. I took the car into the garage where it was carefully inspected, greased and washed. Then a call was made by the garage manager. “Come on,” he said to me, “he wants us to take it over to him.” I drove the Lincoln, and the manager drove another car so that we had return transportation. Up the spacious drive of a big house, and three men appeared. The manager was very deferential to the frosty-faced man who had bought the Lincoln. The two men with him were automobile engineers who proceeded to give the Lincoln a thorough examination. “It has been very carefully driven,” said the senior engineer, “you may take delivery with complete confidence.”

The frosty-faced man nodded condescendingly at me. “Come along to my study,” he said, “I am going to give you a bonus of a hundred dollars—for you alone—because you have driven so carefully.”

“Man, oh! Man!” said the manager afterwards. “That was mighty big of him, you sure made a hit.”

Tôi nói “Tôi muốn có công việc gì có thể đưa tôi đến Canada. Ông có thể giúp tôi không?”

“Ái chà,” vị quản lý nói, “anh muốn đi Vancouver mà tôi lại không có kèo gì đi về hướng đó, nhưng tôi biết một người muốn mua một chiếc De Soto mới. Ông ấy sống ở Oroville, ngay gần biên giới. Ông ấy không muốn tự lái xa đến thế. Ông ấy sẽ rất mừng nếu có ai đi giao chiếc xe cho ông ấy. Ông ấy đáng tin cậy đấy. Để tôi gọi cho ông ấy.”

“Này Hank ơi!” vị quản lý nói với một người trong điện thoại, “Ông bớt kèo nhèo đi có được không? Ông nói cho tôi biết là có muốn mua chiếc De Soto nữa không?” Ông ta lắng nghe một lúc rồi cắt ngang, “Được rồi, tôi chưa nói với cậu à? Ở đây tôi đã tìm được người muốn đi Canada đi qua Oroville. Cậu ấy đã đưa một chiếc Lincoln từ New York đến đây. Hank, ông nghĩ sao?” Hank tiếp tục lắp bắp chuyện gì đó dài dòng với giọng Oroville. Tiếng ông ta, khi đến tai tôi nghe như một mớ âm thanh hỗn độn. Vị quản lý thở dài bực bội, nói “Ông đúng là cái đồ khó tính. Ông có thể để séc của mình ở ngân hàng, tôi đã biết ông hơn hai mươi năm nay rồi, tôi không sợ ông bùng mất đâu.” Ông ta lắng nghe thêm một lúc nữa, cuối cùng ông ta nói, “OK, tôi sẽ làm thế. Được rồi, tôi sẽ thêm nó vào trong hóa đơn.” Ông ta gác điện thoại và trút một hơi thở dài và huýt sáo khe khẽ. Ông ta nói với tôi,” Này, cậu, cậu có biết gì về đàn bà không?” Đàn bà à? Sao ông ấy lại nghĩ tôi biết gì về đàn bà? Ai mà hiểu được họ chứ? Đến chính họ còn chẳng hiểu được mình! Vị quản lý nhìn ánh mắt trống rỗng của tôi và nói tiếp, “Hank đang sống ở đó, tôi biết ông ta độc thân bốn mươi năm nay rồi. Bây giờ ông ấy muốn anh chở một số áo váy phụ nữ cho ông ấy. Trời ạ, có khi ông ta bị đồng tính mất rồi. Tôi sẽ bảo bà xã xem sẽ gửi cái gì.”

“I want a job taking me into Canada,” I said. “Can you help me?”

“Well,” replied the manager, “you really want to go to Vancouver and I have nothing in that direction, but I have a man who wants a new De Soto. He lives at Oroville, right on the Border. He will not drive that far himself. He’d be mighty glad to have someone deliver his car. His credit is good. I’ll call him.”

“Gee, Hank!” said the manager to the man on the telephone, “Will ye quit yer dickering! and say if you want the De Soto?” He listened for a while and then broke in, “Well, ain’t I a-telling you? I gotta guy here who is coming to Oroville on his way to Canada. He brought a Lincoln from New York. What say, Hank?” Hank babbled away at length in Oroville. His voice came through to me as a confused jumble of sound. The manager sighed with exasperation. “Well, ain’t you an ornery doggone crittur?” he said. “You can place your cheque in the bank, guess I’ve known you for twenty years and more, not scairt of you running out on me.” He listened for a little longer. “OO-kay,” he said at last, “I will do that. Yep, I’ll add it on the bill.” He hung up the receiver and let out his breath in a long, low whistle. “Say, Mister,” he said to me, “D’ye know anything about wimmin?” Women? What did he think I knew about women? Who does know about them? They are enigmas even to themselves! The manager saw my blank look and continued, “Hank up there, he’s been a bachelor for forty years, that I know. Now he asks for you to bring up some feminine fripperies for him. Well, well, well, guess the ol’ daug’s gone gay. I shall ask the Missus what to send.”

Một tuần sau tôi đi khỏi Seatle trên chiếc xe De Soto mới tinh và chất áo váy phụ nữ trong đó. Bà quản gia còn tế nhị gọi điện cho Hank xem đầu đuôi câu chuyện là ra sao! Từ Seatle đến Wenatchee rồi từ Wenatchee đến Oroville. Hank rất hài lòng, vậy là tôi đã mất rất ít thời gian nhưng đến tận Canada. Tôi ở lại Osoyoos trong vài ngày. Với không ít sự may mắn, tôi đã đi xuyên qua Canada, từ Trail, qua Ottawa, Montreal và rồi Quebec. Ở đây không có gì để nói bởi vì đất nước này khác thường đến nỗi nó có thể là chủ đề của một cuốn sách khác.

Quebec là một thành phố xinh đẹp, nhưng có nhược điểm là ở một vài nơi người ta sẽ không ưa bạn nếu bạn không biết nói tiếng Pháp. Kiến thức về ngôn ngữ của tôi chỉ đủ để tôi trao đổi. Tôi thường đến thăm bờ sông, và một khi đã lấy được thẻ thuyền viên, tôi bắt đầu làm việc trên tàu với cương vị thủy thủ trên boong. Đó không phải là công việc được trả lương cao nhưng nó tạo điều kiện cho tôi được vượt Đại Tây Dương một lần nữa. Đây là một con tàu chở hàng cũ kỹ bẩn thỉu. Thuyền trưởng và thủy thủ đoàn từ lâu đã mất hứng thú với biển và con tàu của họ. Chả ai buồn dọn dẹp vệ sinh chiếc tàu cả. Tôi không được ưa thích vì tôi không đánh bạc hay nói chuyện về phụ nữ. Tôi được họ kính sợ vì mỗi khi tên côn đồ trên tàu cố gắng bắt nạt tôi thì hắn lại phải quỳ lạy xin tha. Hai tên đệ của hắn còn xấu số hơn, tôi đã bị lôi ra trước Thuyền trưởng và bị khiển trách vì làm què chân thành viên của thủy thủ đoàn. Không ai nghĩ rằng tôi đã chỉ tự vệ thôi! Ngoài những sự cố nhỏ đó thì chuyến đi không có chuyện gì xảy ra, và chẳng bao lâu con tàu chầm chậm đi vào hải trình đến nước Anh.

Later in the week I drove out to Seattle in a brand new De Soto and a load of women’s clothes. Mrs. Manager had sensibly telephoned Hank to see what it was all about! Seattle to Wenatchee, Wenatchee to Oroville. Hank was satisfied, so I wasted little time but pressed on into Canada. For a few days I stayed at Osoyoos. By not a little good fortune I was able to make my way across Canada, from Trail, through Ottawa, Montreal, and Quebec. There is no point in going into that here, because it was so unusual that it may yet be the subject of another book.

Quebec is a beautiful city with the disadvantage that in some parts of it one is unpopular unless one can speak French. My own knowledge of the language was just sufficient to get me through! I frequented the waterfront, and by managing to obtain a Seaman’s Union Card, I joined a ship as deck hand. Not a highly paid job, but one which enabled me to work my way across the Atlantic once more. The ship was a dirty old tramp. The Captain and the Mates had long ago lost any enthusiasm for the sea and their ship. Little cleaning work was done. I was unpopular because I did not gamble or talk of affairs with women. I was feared because the attempts of the ship’s bully to assert his superiority over me resulted in him screaming for mercy. Two of his gang fared even worse, and I was hauled before the Captain and reprimanded for disabling members of the crew. There was no thought that I was merely defending myself! Apart from those very minor incidents, the journey was uneventful, and soon the ship was making her slow way up the English Channel.

Tôi đã tan ca và đang đứng trên boong khi tàu đi qua địa danh Needle rồi vào vùng nước giữa đảo Wight và đất liền. Chầm chậm chúng tôi lướt qua bệnh viện Netley nơi có khuôn viên rất đẹp. Rồi chúng tôi đi qua những chiếc phà đông đúc ở Woolston, vào cảng Southampton. Mỏ neo được thả xuống làm bắn tung nước và tiếng dây xích kêu ken két qua lỗ dây neo. Con tàu quay đầu về phía một con sông, tiếng máy điện báo trong phòng vang lên, những rung động nhè nhẹ khi động cơ dừng hoạt động. Các quan chức cảng lên tàu, kiểm tra giấy tờ và lùng sục trong khu vực thuyền viên. Cán bộ y tế Cảng cho chúng tôi thông quan, rồi con tàu từ từ chạy đến nơi neo đậu. Vì là người của thủy thủ đoàn nên tôi phải ở lại trên tàu cho đến khi nó được dỡ hàng xong, sau khi nhận tiền công, tôi xách túi đồ ít ỏi của mình lên bờ.

“Có gì khai báo không?” viên hải quan hỏi.

“Không có gì cả,” tôi trả lời và mở va li theo yêu cầu. Anh ta nhìn soi mói vào đám tài sản ít ỏi của tôi rồi đóng va li lại và lấy phấn ký nguệch ngoạc lên đó.

“Anh ở lại đây bao lâu?” anh ta hỏi.

“Tôi đến và sống ở đây, thưa ngài,” Tôi trả lời

I was off duty and on deck as we passed The Needles and entered the Solent, that strip of water bounded by the Isle of Wight and the mainland. Slowly we crept up past Netley Hospital, with its very beautiful grounds. Up past the busy ferries at Woolston, and into the Harbour at Southampton. The anchor dropped with a splash, and the chain rattled through the hawse-holes. The ship swung head to stream, the engine room telegraph rang out, and the slight vibration of the engine ceased. Officials came aboard, examined the ship’s papers and poked about in the crew’s quarters. The Port Medical Officer gave us clearance, and slowly the ship steamed up to her moorings. As a member of the crew, I stayed aboard until the ship was unloaded, then, paid off, I took my scanty belongings and went ashore.

“Anything to declare?” asked the Customs Officer.

“Nothing at all,” I replied, opening my case as directed. He looked through my few possessions, closed the case, and scribbled his sign on it in chalk.

“How long are you staying?” he asked.

“Going to live here, sir,” I replied.

Anh ta xem hộ chiếu, visa và thẻ làm việc của tôi rồi chấp thuận. “Được rồi đấy,” anh ta chỉ tôi ra phía cửa. Tôi bước đi và quay nhìn lại lần cuối con tàu mà mình vừa rời đi. Bất ngờ một cú húc mạnh khiến tôi gần như ngã xuống đất, tôi vội quay đầu lại. Một viên hải quan khác từ ngoài phố chạy vội vào vì đi làm trễ, va vào tôi, và bây giờ anh ta đang ngồi choáng váng trên đường. Trong lúc anh ta ngồi đó tôi đi lại gần định giúp. Anh ta tức giận vung tay vào tôi, thế là tôi xách vali bước đi. “Đứng lại!” anh ta hét to.

“Anh ta không có vấn đề gì cả, thưa ngài,” viên hải quan vừa kiểm tra tôi nói, “Anh ta không có gì và giấy tờ đầy đủ.”

“Tôi sẽ tự mình kiểm tra,” viên hải quan cấp trên quát lên. Hai viên chức khác đang đứng bên cạnh tôi, mặt tỏ rõ sự lo lắng. Một người trong họ cố giải thích, và liền bị quát lớn “im ngay”.

He looked at my Passport, Visa and Work Permit with approval. “Okay,” he motioned me through the gate. I walked on, and turned to take a last look at the ship I had just left. A stunning blow almost knocked me to the ground and I turned quickly. Another Customs Officer had been hurrying in from the street, late for duty, he had collided with me and now he sat half dazed in the roadway. For a moment he sat there, then I went to help him up. He struck out at me in fury, so I picked up my case to move on. “Stop!” he yelled.

“It is all right, sir,” said the Officer who had passed me through, “He has nothing and his papers are in order.”

“I will examine him myself,” shouted the Senior Official. Two other Officers stood by me, their faces showing considerable concern. One attempted to remonstrate, but was told roughly to “shut up”.

Tôi bị lôi vào trong phòng và ngay lập tức Viên quan chức Khó tính xuất hiện. Ông ta lục soát vali của tôi, đổ hết các thứ xuống đất. Ông ta kiểm tra phần lót và đáy của chiếc vali cũ rích của tôi. Bực tức vì không tìm được gì, ông ta yêu cầu tôi trình hộ chiếu. “A!” ông ta kêu lên, “Anh có visa và giấy phép làm việc. Nhưng văn phòng ở New York không có thẩm quyền để cấp cả hai loại giấy này. Chỉ có chúng tôi ở Anh quốc mới có toàn quyền.” Ông ta cười ngạo nghễ và với động tác khoa trương ông ta xé toạc quyển hộ chiếu của tôi rồi ném vào thùng rác. Bất chợt ông ta lại nhặt những mảnh giấy rách nát và nhét vào túi áo. Tiếng chuông vang lên, hai người đàn ông từ văn phòng bên ngoài đi vào. “Người này không có giấy tờ” ông ta nói, “Anh ta sẽ bị trục xuất, đưa anh ta vào phòng tạm giam.”

“Nhưng, thưa ngài” một viên chức nói, “Thực tế tôi đã kiểm tra, chúng đều hợp lệ.”

“Anh lại dám nghi ngờ năng lực của tôi à?” viên quan chức gầm lên. “Hãy làm như tôi nói!”

Người đàn ông buồn bã cầm lấy cánh tay tôi. “Đi nào”, anh ta nói. Tôi bị dẫn ra ngoài và bị nhốt trong phòng giam trống rỗng.

I was taken to a room, and soon the irate Officer appeared. He looked through my case, throwing my things on the floor. He searched the linings and bottom of the battered old case. Chagrined that nothing was to be found, he demanded my Passport. “Ah!” he exclaimed, “You have a Visa and a Work Permit. The Officer in New York had no authority to issue both. It is left to our discretion here in England.” He was beaming with triumph, and with a theatrical gesture he tore my Passport right across and threw it in the rubbish container. On an impulse, he picked up the tattered remnants, and stuffed them in his pocket. Ringing a bell, two men came in from the outer office. “This man has no papers,” he said, “He will have to be deported, take him to the Holding Cell.”

“But, Sir!” said one of the Officers, “I actually saw them, they were in order.”

“Are you questioning my ability?” roared the Senior man. “Do as I say!”

A man sadly took my arm. “Come on,” he said. I was marched out and lodged in a bare cell.

“Lạy Chúa, anh bạn!” Người đàn ông Trẻ tuổi Sáng sủa từ Văn phòng Ngoại giao nói khi bước vào phòng giam tôi rất rất lâu sau đó. “Tất cả việc này thật là phiền hà, phải không?” Anh ta vuốt vuốt cái cằm nhẵn nhụi như trẻ con và thở dài rất to. “Anh thấy vị trí của chúng tôi rồi đấy, mẹ kiếp, nó thực sự là rất đáng buồn! Chắc hẳn anh đã phải có giấy tờ, không thì quan chức ở Quebec đã không cho anh lên tàu rồi. Bây giờ thì anh không có giấy tờ. Chúng chắc hẳn đã bị mất ở trên biển. Hợp lý không, anh bạn? Tôi nói thế ý là…”

Tôi quắc mắt nhìn anh ta và nói, “Giấy tờ của tôi đã bị cố tình xé bỏ. Tôi yêu cầu phải được thả ra và phải cho phép tôi nhập cảnh.”

“Vâng, vâng,” anh ta nói, “nhưng anh có chứng minh được không? Tôi đã phong phanh hiểu được chính xác những gì đang xảy ra. Nhưng chúng tôi phải đứng về phía đồng nghiệp của mình, không thì báo chí sẽ quây lấy chúng tôi. Đó là lòng trung thành, chút tinh thần đồng đội, anh hiểu rồi đó.”

“By Jove, Old Boy!” said the Bright Young Man from the Foreign Office when he entered my cell much, much later. “All this is a frightful pother, what?” He stroked his baby-smooth chin and sighed noisily. “You see our position, Old Chap, it really is just too too simply desperate! You must have had papers, or the Wallahs in Quebec would not have let you embark. Now you have no papers. They must have been lost overboard. Q.E.D. Old Boy, what? I mean to say . . .”

I glowered at him and remarked, “My papers were deliberately torn up. I demand that I be released and be permitted to land.”

“Yes, yes,” replied the Bright Young Man, “but can you prove it? I have had a gentle breeze in my ear which told me exactly what happened. We have to stand by our uniformed staff, or the Press would be around our ears. Loyalty and esprit de corps, and all that sort of thing.”

“Vậy là,” tôi nói, “anh đã biết tất cả sự thật, rằng giấy tờ của tôi đã bị hủy hoại, vậy mà anh mang tiếng là ở một nơi vẫn được ca tụng là “đất nước tự do” có thể thờ ơ đứng nhìn người ta hành hạ tôi như thế à?”

“Anh bạn thân mến của tôi ơi, anh chỉ có hộ chiếu cư dân của một Tiểu Bang Sát Nhập chứ không phải là thành viên của Khối Thịnh Vượng Chung ngay từ khi ra đời. Tôi e rằng anh đã ra ngoài quỹ đạo của chúng tôi. Bây giờ thế này nhé, chàng trai, nếu anh không đồng ý rằng đã bị mất giấy tờ ở trên biển, thì chúng tôi sẽ phải khởi tố anh đã nhập cảnh trái phép. Điều đó có nghĩa là anh sẽ bị ngồi tù tối đa hai năm. Nếu anh chịu “diễn” với chúng tôi thì anh sẽ chỉ bị trả về New York thôi.”

“So,” I said, “you know the truth, that my papers were destroyed, yet you, in this much-vaunted ‘Land of the Free’, can stand blandly aside and watch such persecution?”

“My dear fellow, you merely had the Passport of a resident of an Annexed State, you are not a Commonwealth member by birth. I’m afraid you are rather out of our orbit. Now, Chappie, unless you agree that your papers were—ah!—lost overboard, we shall have to make a case against you for illegal entry. That might net you a stretch in the cooler for up to two years. If you play ball with us, you will merely be returned to New York.”

“New york? Tại sao lại là New york?” tôi hỏi lại.

“Nếu anh quay về Quebec, anh sẽ gây rắc rối cho chúng tôi. Chúng tôi có thể chứng minh được rằng anh đã đến từ New York. Vậy tùy anh thôi. Anh chọn New York hay hai năm làm khách không mời của nhà tù của Bệ Hạ.” Nghĩ một chút anh ta nói thêm, “Tất nhiên anh cũng vẫn bị trục xuất sau khi thi hành xong án, và Nhà chức trách sẽ rất vui vẻ với việc tịch thu số tiền mà anh có. Nhưng đề nghị của chúng tôi có thể cho phép anh được giữ lại nó.”

Anh ta đứng dậy và phủi bụi tưởng tượng trên cái áo khoác chỉnh chu của mình. “Hãy nghĩ kỹ đi, anh bạn, hãy nghĩ kỹ vào, chúng tôi đã đưa ra cho anh một lối thoát rất hoàn hảo!” Nói vậy, rồi anh ta quay đi và để tôi ở lại một mình trong phòng giam.

Người ta mang vào món đồ ăn cứng ngắc của Anh và tôi phải cố gắng cắt nó bằng con dao cùn nhất mà đã từng sử dụng. Có thể họ nghĩ rằng trong lúc cùng quẫn nhất tôi có thể tự sát. Nhưng thực sự là, không ai có thể tự sát bằng một con dao cùn như thế này.

“New York? Why New York?” I asked.

“If you return to Quebec, you might cause us some trouble. We can prove that you came from New York. So it is up to you. New York or up to two years as an involuntary Guest of His Majesty. He added as an afterthought “Of course, you would still be deported after you had served your sentence, and the Authorities would gladly confiscate that money which you have. Our suggestion will enable you to keep it.”

The Bright Young Man stood up and brushed imaginary specks of dust from his immaculate jacket. “Think it over Old Boy, think it over, we offer you a perfectly wizard way out!” With that he turned and left me alone in the cell.

Stodgy English food was brought in and I attempted to cut it up with the bluntest knife I have ever used. They might have thought that in my extremity I contemplated suicide. Well, no one would commit suicide with that knife.

Ngày trôi qua. Một người lính gác thân thiện dúi vào cho tôi mấy tờ báo tiếng Anh. Sau khi lướt qua, tôi bỏ chúng xuống bên cạnh bởi có thể thấy là trong đó chỉ toàn viết về tình dục và những vụ bê bối. Màn đêm buông xuống, tôi được mang đến một cốc ca cao đặc và một lát bánh mì với bơ. Đêm thật lạnh lẽo và nhớp nháp khiến tôi nghĩ đến những nấm mồ và những thi thể mục nát thối rữa ở trong đó.

Sáng ra, người lính gác chào tôi bằng một nụ cười dường như làm nứt khuôn mặt lạnh lùng vốn có của anh ta. “Cậu sẽ rời khỏi đây vào ngày mai,” anh ta nói, “Thuyền trưởng một con tàu đã đồng ý nhận nếu cậu đồng ý làm việc. Cậu sẽ bị chuyển tới cảnh sát New York khi đến nơi.”

Một lúc sau, một viên chức đến chính thức nói rằng tôi sẽ phải lao động khổ sai ở trên tàu, đó là thu dọn than ở trong hầm của một tàu hàng cũ kỹ mà không có thiết bị bảo hộ nào cả. Tôi sẽ không được trả công và phải ký cam kết rằng tôi đồng ý với những điều kiện đó. Buổi chiều, tôi bị đưa đến Đại lý tàu biển, có lính gác đi cùng, ở đó gặp Thuyền trưởng và tôi phải ký vào cam kết.

The day wore on. A friendly Guard tossed in some English newspapers. After a glance I put them aside, so far as I could see they dealt only in sex and scandal. With the coming of darkness I was brought a thick mug of cocoa and a slice of bread and margarine. The night was chilly, with a dankness that reminded me of tombs and moldering bodies.

The morning Guard greeted me with a smile which threatened to crack his stony face. “You leave tomorrow” he said. “A ship’s Captain has agreed to take you if you work your passage. You will be turned over to the New York Police when you arrive.”

Later in the morning an official arrived to tell me officially, and to tell me that I would be doing the hardest work aboard ship, trimming coal in the bunkers of an ancient freighter with no labour saving devices at all. There would be no pay and I would have to sign the Articles to say that I agreed to those terms. In the afternoon I was taken down to the Shipping Agent, under guard, where—in the presence of the Captain, I signed the Articles.

Hai tư giờ sau, cũng vẫn có lính canh giám sát, tôi được đưa xuống tàu và bị nhốt ở trong một cabin nhỏ, và được bảo rằng phải ở nguyên trong đó cho đến khi con tàu ra khỏi vùng lãnh thổ trên biển. Chẳng mấy chốc tiếng thình thịch của cỗ máy già nua đã đánh thức con tàu khiến nó bắt đầu di chuyển một cách chậm chạp. Có tiếng chân bước nặng nề trên đầu tôi và với sự lên xuống của boong tàu tôi biết rằng chúng tôi đang chạy vào vùng biển động. Không cần phải đến khi Portland Bill lùi xa và khuất bóng bên mạn phải thì tôi đã được thả ra. “Bắt đầu làm việc đi,” một thợ lò nói và đưa cho tôi một cái xẻng, một cái cào than cũ kỹ. “Vét sạch xỉ than trong hầm lò, mang lên trên boong và hất chúng xuống biển. Nhiệt tình lên, làm ngay đi!”

Twenty-four hours later, still under guard, I was taken to the ship and locked in a small cabin, being told that I would have to remain there until the ship was beyond the limits of territorial waters. Soon the thudding of the old engine awakened the ship to sluggish life. There was the clatter of heavy feet above me and by the rise and fall of the deck I knew that we were heading out into a choppy sea. Not until Portland Bill was well off to starboard, and receding in the distance, was I released. “Git crackin’, chum,” said the fireman, handing me a battered shovel and rake. “Clean out them there ‘oles of clinker. Take ’em on deck and dump ’em. Look lively, now!”

“A, đây rồi!” một gã đàn ông to lớn la toáng lên khi tôi tới đó. “Nhìn này, chúng ta có được ai đây, một thằng Nam Á, hay là Tàu Khựa, hay Nhật Bẩn.” Hắn ta nói và tát vào mặt tôi, “Còn nhớ vụ Trân Châu Cảng không?”

“Butch, để cậu ta yên,” một người khác nói, “tên này bị cảnh sát theo đấy.”

Butch gầm lên “Phải cho nó một bài học trước, để báo thù vụ Trân Châu Cảng.” Hắn ta lao về phía tôi đấm lia lịa, và càng trở nên tức giận hơn vì không trúng tôi quả nào. “Lủi như chạch ý nhỉ?” Hắn gầm gừ rồi vươn tay ra định tóm cổ tôi. Ông già Tzu và những người khác ở Tây tạng xa xôi đã chuẩn bị sẵn cho tôi khi gặp trường hợp này. Tôi cúi xuống tránh khiến hắn mất đà lao về phía trước. Hắn vấp vào người tôi, mặt đập mạnh vào cạnh bàn vỡ hàm và suýt bị rách tai vì một cái cốc làm vỡ trong lúc ngã. Từ đó tôi không còn bị cánh thủy thủ quấy rầy nữa.

“Aw! Looky here!” bawled the huge man in the fo’c’sle later when I went there. “We gotta Gook, or Chink or a Jap. Hey you,” he said slapping me across the face, “Remember Pearl ‘Arber?”

“Let ‘im be, Butch,” said another man, “the cops are arter ‘im.”

“Haw haw!” roared Butch, “Let’s give ‘im a workin’ over fust, just fer Pearl ‘Arber.” He sailed in to me, fists going like pistons, and becoming more and more furious as none of his blows reached me. “Slippery swab, eh?” he grunted, reaching out in an attempt to get my throat in a strangle-hold. Old Tzu, and others in far-off Tibet had well prepared me for such things. I dropped, limp, and Butch’s momentum carried him forward. He tripped over me and smashed his face on the edge of the fo’c’sle table, breaking his jaw and nearly severing an ear on a mug which he broke in his fall. I had no more trouble with the crew.

Dần dần New York cũng đã hiện ra trước mắt chúng tôi. Con tàu rẽ sóng lướt đi, để lại trên bầu trời một làn khói đen từ loại than kém chất lượng mà chúng tôi đang dùng. Anh thợ đốt lò người Ấn Độ, sợ hãi nhún vai, lách lên đến chỗ tôi. Anh ta nói “Cảnh sát sẽ đến tìm cậu bây giờ đấy. Cậu là người tốt, tôi đã nghe thấy những gì thuyền trưởng nói với Trưởng máy. Họ phải tránh rắc rối.” Anh ta đưa cho tôi một vỏ bao thuốc lá da dính dầu mỡ.” Hãy nhét tiền vào đây và nhảy xuống nước trước khi họ đưa cậu lên bờ.”Anh ta thì thào vẻ tin cậy, nói cho tôi chỗ tàu cảnh sát sẽ đi đến, chỗ tôi nên trốn giống như anh ta đã làm trước đây. Tôi chăm chú lắng nghe khi anh ta nói với tôi cách trốn thoát khỏi cảnh sát săn lùng sau khi nhảy xuống biển. Anh ta cho tôi tên và địa chỉ của người có thể giúp đỡ, và anh ta hứa liên lạc lại với họ khi lên bờ. “Tôi đã từng bị rắc rối như vậy,” anh ta nói. “Tôi bị dựng chuyện vì màu da của mình.”

Slowly the New York skyline loomed up ahead of us. We ploughed on, leaving a black wake of smoke in the sky from the inferior coal we were using, A Lascar stoker, looking fearfully over his shoulder, edged up to me. “De cops come for you soon,” he said. “You good man, heard Chief saying what Cap’n told him. They got to keep their noses clean.” He passed me over an oilskin tobacco pouch. “Put your money in that and slip over de side before dey gets you ashore.” He whispered confidentially, telling me where the Police boat would head, telling me where I could hide, as he had done in the past. I listened with great care as he told me how to escape the Police hunt after I had jumped overboard. He gave me names and addresses of people who would help me and he promised to get in touch with them when he went ashore. “I have been in trouble like this,” he said. “I got framed because of th’ color of ma skin.”

“Này, cậu kia!” Một giọng nói oang oang từ đài chỉ huy. “Thuyền trưởng muốn gặp cậu. Khẩn trương lên!” Tôi vội vàng đi đến đài chỉ huy, vị thuyền phó giơ ngón tay cái chỉ về hướng Phòng hải đồ. Thuyền trưởng đang ngồi bên bàn xem một số giấy tờ. Ông ta nhìn tôi, nói “Tôi sẽ nộp cậu cho cảnh sát. Cậu có gì nói trước với tôi không?”

Tôi trả lời, “Thưa ngài, giấy tờ của tôi đầy đủ, nhưng vị hải quan cấp cao đã xé bỏ nó.”

Ông ta nhìn tôi rồi gật đầu, nhìn lại chỗ giấy tờ và có vẻ như đã quyết. “Tôi biết cái người mà cậu vừa nói đến. Chính tôi cũng đã gặp rắc rối với anh ta. Nhưng bộ mặt của quan chức phải được bảo vệ bất kể việc đó gây khốn khổ cho người khác như thế nào. Tôi biết câu chuyện của cậu là có thật bởi vì tôi có một người bạn làm ở đó đã kể về trường hợp của cậu.” Ông ta lại nhìn xuống mân mê mấy tờ giấy. “Ở đây tôi thấy anh bị ghi tội trốn vé.”

“Nhưng, thưa ngài!” tôi kêu lên, “Sứ quán Anh ở New York có thể xác nhận tôi là ai. Đại lý tàu biển ở Quebec cũng có thể làm như vậy.”

“Anh bạn của tôi ơi,” Thuyền trưởng buồn rầu nói, “Cậu không biết cách làm việc của người phương Tây rồi. Sẽ không có việc điều tra thêm gì hết. Cậu sẽ bị đưa lên bờ, và vào trại giam, bị xét xử, kết tội rồi bị tống vào tù. Rồi cậu sẽ bị lãng quên. Đến khi cậu sắp mãn hạn tù, cậu sẽ bị giữ lại cho đến khi có thể bị trục xuất về Trung quốc.”

“Thế thì quá bằng giết người à, thưa ngài,” tôi nói

“Hey, you!” A voice bawled from the Bridge. “The Cap’n wants you. Double to it!” I hurried up to the Bridge, the Mate jerked a thumb in the direction of the Chart Room. The Captain was sitting at a table looking over some papers. “Ah!” he said, as he looked up at me. “I put you in charge of the police. Have you anything to tell me first?”

“Sir,” I replied, “my papers were all in order, but a senior Customs Officer tore them up.”

He gazed at me and nodded, looked at his papers again and apparently made up his mind. “I know the man you mean. I have had trouble with him myself. The face of officialdom must be saved, no matter what misery it causes for others. I know your story is true, for I have a friend at Customs who confirmed your tale.” He looked down again and fiddled with the papers. “I have a complaint here that you were a stowaway.”

“But, sir!” I exclaimed, “the British Embassy in New York can confirm who I am. The Shipping Agents in Quebec can do likewise.”

“My man,” sadly said the Captain, “You do not know the ways of the West. No enquiries will be made. You will be taken ashore, placed in a cell, tried, convicted, and sent to prison. Then you will be forgotten. When the time for your release is near, you will be detained until you can be deported back to China.

“That will be death, Sir,” I said.

Ông ta gật đầu. “Đúng, nhưng như vậy, thì qui trình pháp luật đã được tuân thủ. Chúng tôi trên con tàu này đã có một trải nghiệm, lâu rồi, trong thời Cấm Rượu Hoa Kỳ. Chúng tôi đã bị bắt giữ chỉ vì nghi ngờ, và bị phạt nặng trong khi chúng tôi vô tội.”

Ông ta mở ngăn kéo trước mặt và lấy ra một vật nhỏ. “Tôi sẽ nói với cảnh sát là cậu bị dựng chuyện, tôi sẽ giúp cậu tất cả những gì có thể. Họ có thể sẽ còng tay cậu, nhưng sẽ không rà soát cậu cho đến khi lên bờ. Đây là chìa khóa mở được còng tay của cảnh sát. Tôi không đưa nó cho cậu mà tôi sẽ để ở đây rồi tôi sẽ quay đi.” Ông ta đặt chiếc chìa khóa sáng bóng ở trước mặt tôi, đứng dậy khỏi bàn và quay ra chỗ hải đồ phía sau ông. Tôi nhặt lấy chìa khóa và đút vào túi.

‘Cám ơn Ngài,” tôi nói, “Tôi cảm thấy tốt hơn khi ông đã tin tôi.”

He nodded. “Yes, but the course of official duty will have been followed. We on this ship had an experience, way back in Prohibition days. We were arrested on suspicion and heavily fined, yet we were quite innocent.”

He opened the drawer in front of him and took out a small object. “I will tell the Police that you have been framed, I will help you all I can. They may handcuff you, but they will not search you until they get you ashore. Here is a key which fits the Police handcuffs. I will not give it to you, but will place it here, and turn away.” He placed the shiny key in front of me, rose from his desk, and turned to the chart behind him. I picked up the key and put it in my pocket.

“Thank you, Sir,” I said, “I feel better for your faith in me.”

Từ đằng xa tôi đã thấy chiếc tàu cảnh sát chạy về phía chúng tôi, tung bọt nước trắng xóa ở mũi. Nó khéo léo chạy song song với tàu, quay nửa vòng rồi áp sát vào mạn tàu chúng tôi. Thang được thả xuống, và hai cảnh sát leo lên, đi về đài chỉ huy giữa những cái nhìn khó chịu của đám thủy thủ. Thuyền trưởng ra chào họ, mời uống nước và xì gà. Sau đó ông trình giấy tờ đang ở trên bàn. “Cậu này làm việc tốt, tôi nghĩ cậu ấy bị nhân viên chính phủ dựng chuyện. Nếu được gọi đến Sứ quán Anh, cậu ấy có thể chứng minh mình vô tội.”

Viên cảnh sát cấp cao nhìn một cách hoài nghi, “Mấy tên này ai mà chả vô tội. Các trại giam có đầy những người vô tội bị xử oan, cứ nghe họ là biết. Tất cả những gì chúng tôi muốn là giam cậu ta lại, và thế là xong việc. Đi thôi, cậu kia!” Anh ta nói với tôi. Tôi quay lại xách vali. “Cậu sẽ không muốn thế đâu,” anh ta nói và đẩy tôi đi. Không mảy may nghĩ ngợi anh ta tra chiếc còng vào cổ tay tôi.

“Ồ, ông không phải làm thế”, Thuyền trưởng gọi lại. “Cậu ta chả chạy được đi đâu, mà như vậy thì cậu ta làm sao có thể từ đây xuống tàu các anh được.”

“Cậu ta cứ nhảy xuống nước đi rồi chúng tôi sẽ móc cậu ta lên,” viên cảnh sát nói và cười hô hố.

In the distance I saw the Police boat coming up towards us, a white cascade of spray at the bows. Smartly it came alongside, executed a half turn, and edged in towards us. The ladder was lowered, and two policemen came aboard and made their way up to the Bridge, amid sour looks from members of the crew. The Captain greeted them, giving them a drink and cigars. Then he produced the papers from his desk. “This man has worked well, in my opinion he has been framed by a Government official. Given time to call at the British Embassy, he could prove his innocence.”

The senior policeman looked cynical, “All these guys are innocent; the penitentiaries are full of innocent men who have been framed, to listen to them. All we want is to get him tucked nicely in a cell and then we go off duty. “C’mon, fella!” he said to me. I turned to pick up my case. “Aw, you won’t want that,” he said, hustling me along. On an afterthought he snapped the handcuffs round my wrists.

“Oh, you don’t want that,” called the Captain. “He can’t run anywhere, and how will he get down to your boat?”

“He can fall in the drink and we will fish him out,” replied the policeman, laughing coarsely.

Leo xuống cầu thang thật không dễ chút nào, nhưng tôi đã xoay xở được mà không có vướng mắc nào trước sự thất vọng của viên cảnh sát. Lúc trên tàu, họ thôi không để ý đến tôi nữa. Chiếc tàu tăng tốc chạy vượt qua nhiều con tàu khác và nhanh chóng cập vào cầu cảng dành riêng cho cảnh sát. “Đến lúc rồi đây” tôi nghĩ, rồi lao nhanh qua bên tàu, nhảy xuống biển. Rất khó khăn, tôi tra chìa vào ổ khóa và xoay. Chiếc còng tay rơi ra và chìm xuống biển. Thật từ từ tôi trồi lên mặt nước. Viên cảnh sát đứng ở xa, có người phát hiện ra tôi và bắt đầu bắn. Tôi lại lặn xuống khi đạn bắn quanh mình. Tôi bơi miết cho đến khi phổi muốn vỡ tung, rồi lại nổi lên. Cảnh sát đã ở xa, đang sục sạo quanh khu vực nghi tôi có thể lên bờ. Tôi bò lên bờ ở chỗ ít nghi ngờ nhất, nhưng không nêu ra ở đây đề phòng có một lúc nào khác một kẻ xấu số nào cần chỗ ẩn trốn.

Climbing down the ladder was not easy, but I managed it without mishap, to the obvious regret of the police. Once on the cutter, they took no more notice of me. We sped along past many ships and rapidly approached the Police jetty. “Now is the time,” I thought, and with a quick leap I was over the side, allowing myself to sink. With acute difficulty I slipped the key in the lock, and turned. The handcuffs came off and sank. Slowly, very slowly, I rose to the surface. The police cutter was a long way off, the men spotted me, and started firing. Bullet splashes were all around me as I sank again. Swimming strongly until I felt that my lungs would burst, I surfaced again. The police were far off, searching round the “obvious place”, where I would be expected to land. I crawled ashore at the least obvious place, but will not mention it in case some other unfortunate should need refuge.

Tôi nằm hàng giờ trên những tấm gỗ nổi lập lờ trên mặt nước, run rấy và đau đớn, trong dòng nước bẩn thỉu bao quanh. Có tiếng cọt kẹt của cọc chèo và tiếng mái chèo khua xuống nước. Một chiếc thuyền có ba cảnh sát xuất hiện. Tôi trườn xuống khỏi thanh gỗ và lại lặn xuống một lần nữa và chỉ để hở lỗ mũi trên mặt nước. Mặc dù đã trốn dưới tấm ván, nhưng tôi vẫn ở tư thế sẵn sàng bơi đi thật nhanh. Con thuyền cứ lượn lờ lên xuống. Một lúc lâu sau một giọng nói khàn khàn cất lên, “Bây giờ chắc là hắn ta chết cứng rồi. Rồi sẽ tìm thấy xác hắn. Thôi về làm mấy cốc cà phê đi.” Con thuyền lướt đi khỏi chỗ tôi đang trốn. Sau một lúc lâu ngâm mình dưới nước, tôi mới lại được duỗi tấm thân đau đớn trên tấm ván, run lập cập.

For hours I lay on half sunken timbers, shivering and aching, with the scummy water swirling round me. There came the creak of rowlocks and the splashing of oars in the water. A row boat with three policemen came into sight. I slid off the beam, and let myself sink in the water so that only my nostrils were above the surface. Although I was hidden by the beam, I kept in readiness for instant flight. The boat prowled up and down. At long, long last a hoarse voice said, “Guess he’s a stiff by now. His body will be recovered later. Let’s get off for some cawfee.” The boat drifted out of my range. After a long interval I dragged my aching body on the beam again, shivering almost uncontrollably.

Hết một ngày, tôi rón rén lái tấm ván lại gần chiếc thang mục nát. Tôi thận trọng leo lên, nhìn quanh không có ai, tôi chạy vọt ra chỗ nấp ở nhà kho. Cởi hết quần áo, tôi cố gắng vắt kiệt nước. Ở cuối cầu tàu có một người xuất hiện, đó là Lascar (người Ấn độ). Anh ta đi đến và đứng ngay trước mặt tôi. Tôi huýt sáo khe khẽ. Anh ta dừng lại và ngồi lên chiếc cọc neo thuyền. “Cậu phải rất thận trọng khi lên bờ”, anh ta nói “Cảnh sát được điều ra đông lắm. Cậu chắc hẳn đã phải làm chúng hoang mang lắm.” Anh ta đứng dậy và vươn người nhìn xung quanh. “Đi theo tôi,” anh ta nói, “nhưng tôi sẽ coi như không biết cậu nếu cậu bị bắt. Có một người da màu đang đứng đợi cùng với chiếc xe tải. Khi chúng ta đến đó, cậu hãy leo lên đuôi xe và lấy tấm bạt phủ lên người nhé.”

Anh ta bước đi, và không nói gì nữa, tôi đi theo, chạy từ bóng ngôi nhà này sang ngôi nhà khác. Tiếng nước vỗ vào các cọc cắm dưới bến và tiếng xe cảnh sát từ xa vọng lại là những âm thanh duy nhất khuấy động sự thanh bình ở đây. Bất chợt có tiếng lạch tạch của động cơ xe tải đang khởi động và có một vạt ánh sáng xuất hiện phía trước. Một người da đen to lớn gật đầu với Lascar và nháy mắt thân thiện với tôi đang đi theo đằng sau, ông ta ra hiệu tôi ra phía sau xe. Tôi đau đớn trèo vào trong và kéo tấm bạt trùm lên người. Chiếc xe chuyển động rồi dừng lại. Có hai người đàn ông trèo ra và một người nói. “Chúng tôi phải chở thêm một chút hàng. Anh lùi sâu vào trong đi.” Tôi bò về phía ca bin và thấy có tiếng lọc cọc của những thùng hàng được chất lên xe.

The day ended, and stealthily I inched along the beam to a half rotten ladder. Gingerly I climbed up, and seeing no one, darted for the shelter of a shed. Stripping off my clothing, I wrung them as dry as possible. Off to the end of the wharf a man appeared, the Lascar. As he came down and was opposite me, I gave a low whistle. He stopped, and sat upon a bollard. “You kin come out cautious-like,” he said. “De cops be sure out in force on de udder side. Man! You sure got dem boys rattled.” He stood up and stretched, and looked around him. “Follow me,” he said, “but I don’t know you if you is caught. A coloured gennulmun is waiting wit a truck. When we get dere you climb in de back and cover yo-self with de tarp.”

He moved away, and giving him plenty of time, I followed, slipping from one shadowed building to another. The lapping of water around the piles and the far-off wail of a police car were the only sounds disturbing the peace. Suddenly there was the rattle of a truck engine being started and tail lights appeared just ahead. A huge negro nodded to the Lascar and gave me, following behind, a friendly wink as he gestured to the back of his truck. Painfully I climbed in and pulled the old tarpaulin over me. The truck moved on and stopped. The two men climbed out and one said, “We gotta load up a bit now, move forward.” I crawled towards the driver’s cab, and there was the clatter of boxes being loaded on.

Chiếc xe chạy đi, nẩy lên trên con đường gồ ghề. Chẳng mấy chốc nó dừng lại, và một giọng nói thô lỗ quát lên, “Chúng mày có cái gì trong đó thế?”

“Chỉ có rác thôi, thưa ông”, người da đen nói. Có bước chân nặng nề đi bên cạnh tôi. Có cái gì đó thọc vào đống rác ở phía sau. Có tiếng nói, “Được rồi, đi đi.” Tiếng cánh cổng mở ra, người da đen vào số, và xe tiếp tục chạy trong đêm. Chúng tôi dường như đã đi được nhiều giờ, rồi chiếc xe rẽ ngoặt, phanh gấp và dừng lại. Tấm bạt được kéo ra, người Ấn Độ và người da đen đứng đó cười toe toét với tôi. Tôi mệt mỏi quờ quạng và sờ thấy túi tiền của mình. Tôi nói “Tôi sẽ trả tiền cho các anh.”

“Không phải trả gì cả” người da đen nói.

“Butch đã suýt giết tôi trước khi chúng ta đến New York,” Người Ấn Độ nói. “Cậu đã cứu tôi, bây giờ tôi cứu lại cậu, và chúng ta cùng đứng lên đấu tranh chống lại nạn phân biệt chủng tộc. Nào, vào đi”.

“Chủng tộc, tín ngưỡng hay màu da thì có gì là quan trọng,” tôi nghĩ. “Tất cả chúng ta đều chảy máu mầu đỏ cả.” Họ dẫn tôi vào một căn phòng ấm áp, ở đó có hai người phụ nữ da đen nhạt. Chẳng mấy chốc tôi được quấn trong những chiếc chăn ấm và ăn đồ nóng. Sau đó họ chỉ cho tôi chỗ ngủ và rồi tôi thiếp đi.

The truck moved on, jolting over the rough roads. Soon it came to a halt, and a rough voice yelled, “What have you got there, folks?”

“Only garbage, sir,” said the negro. Heavy footsteps came along beside me. Something poked about in the rubbish at the back. “Okay,” said the voice, “on your way.” A gate clanged, the Negro shifted into gear, and we drove out into the night. We seemed to drive for hours, then the truck turned sharply, braked, and came to a halt. The tarpaulin was pulled off, and there stood the Lascar and the Negro, grinning down at me. I stirred wearily, and felt for my money. “I will pay you,” I said.

“Pay nuthin’,” said the negro.

“Butch was going to kill me before we reached New York,” said the Lascar. “You saved me, now I save you, and we put up a fight against the discrimination against us. Come on in.”

“Race, creed, and colour do not matter,” I thought. “All men bleed red.” They led me into a warm room where there were two light coloured Negro women. Soon I was wrapped in hot blankets, eating hot food. Then, they showed me a place where I could sleep, and I drifted off.

Người dịch: Nguyễn Thị Liễu

Biên tập: VMC

 


Có thể bạn quan tâm

Xem tất cả

Đăng ký hướng dẫn Thiền cơ bản

Loading...
Logo-vmc
TRUNG TÂM THIỀN ĐỊNH:
- Số 116 Trần Vỹ, Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội
Chị Khánh:  

‎0981956875

Chị Thủy:  

‎0981956820

Facebook:

facebook.com/congdongthienVietNam

TIN TỨC NỔI BẬT

© 2024 Copyright by IT AUM