Ánh Sáng Trên Đường Đạo Phần 1 – Mabel Collins
11:16 22/06/2020LỜI GIỚI THIỆU
Kỳ xuất bản cuốn sách này lần thứ nhất, phát hành năm 1885 trên trang đề tựa được miêu tả như sau: “Một luận văn dành riêng cho những ai chưa hiểu biết về Minh Triết Ðông Phương và muốn hấp thụ ảnh hưởng của nó . Nhưng chính cuốn sách này lại mở đầu như sau : “Những qui luật này được viết ra để cho tất cả các hàng đệ tử”. Dĩ nhiên lời miêu tả sau cùng thì rõ ràng và đúng hơn, trong đoạn lược sử của sách. Bản nguyên tác của sách hiện nay là do Chơn Sư Hilarion đọc cho bà Mabel Collins viết, khi bà ở trong một trạng thái thụ động như một đồng tử. Bà là một mệnh phụ rất quen thuộc trong giới Thông Thiên Học; bà đã một lần cộng tác với bà Blavatsky trong việc làm chủ bút tờ báo Lucifer. Chơn Sư Hilarion nhận được bản nội dung sách này chính tự tay Sư Phụ của Ngài, tức là Đấng Cao Cả mà các sinh viên Thông Thiên Học một đôi khi gọi Ngài là Ðức Vénetian, nhưng Ðức Vénetian cũng chỉ soạn thảo một phần của sách mà thôi. Sách này đã trải qua ba giai đoạn mà chúng ta hãy lần lượt ghi như sau:
Mãi cho đến bây giờ, tác phẩm này chỉ là một cuốn sách nhỏ, nhưng khi chúng tôi thấy nó lần đầu tiên thì nó còn nhỏ hơn bây giờ. Ðó là một cuốn sách viết tay trên những tờ lá gồi, cũ xưa đến đỗi ta không đoán tuổi nó được, sách này cũ đến nỗi ngay trước Thiên Chúa Giáng Sanh, người ta đã quên tên tác giả và ngày phát hành sách, nguồn gốc sách đã bị quên lãng trong những đám mây mờ của thời tiền sử xa xôi. Sách gồm mười tờ lá gồi và trên mỗi tờ chỉ có ba hàng chữ viết. Vì trong một cuốn sách viết tay, trên lá gồi như thế, chữ được viết theo dọc tờ giấy, từ trên xuống dưới (như chữ nho), chứ không viết xuyên ngang trang giấy, từ trái sang phải như ta thường viết bây giờ. Mỗi hàng chữ là một câu châm ngôn ngắn đầy đủ ý nghĩa.
Ðể cho ba mươi hàng chữ này được trình bày rõ ràng minh bạch, trong bổn in này mà quí bạn đang đọc đây, chúng được in bằng chữ sậm. Trong nguyên bản, có những câu châm ngôn được viết theo một lối chữ Bắc Phạn cổ xưa.
Chơn Sư Vénetian đã dịch sách này từ tiếng Bắc Phạn ra tiếng Hy Lạp để các môn đệ của Ngài thuộc môn phái Alexandria đọc. Trong một kiếp, Chơn Sư Hilarion đã là một môn đệ đó, mang tên là Iamblichus. Không những Ðức Vénetian dịch các câu châm ngôn, Ngài còn thêm vào đó những lời giảng nghĩa cần được đọc cùng với bản nguyên tác.
Thí dụ, nếu nhận xét về 3 câu châm ngôn đầu tiên, ta thấy đoạn văn đầu số 4 (kế tiếp) rõ ràng là dụng ý làm lời bình luận cho 3 câu trên, vì vậy, ta phải đọc như sau:
“Ngươi hãy tiêu diệt lòng tham vọng, nhưng hãy làm việc như những kẻ lòng đầy tham vọng.
“Ngươi hãy tiêu diệt lòng ham sống, nhưng hãy tôn trọng sự sống.
“Ngươi hãy tiêu diệt lòng ham muốn sự tiện nghi, nhưng hãy sung sướng như những kẻ chỉ sống để hưởng lạc thú”.
Tất cả những lời giảng giải và bàn rộng của Chơn Sư Vénetian được in bằng chữ thường, những lời này (cùng với bản nguyên tác của các câu châm ngôn) làm thành cuốn sách đã được phát hành lần đầu năm l885, vì Chơn Sư Hilarion dịch sách từ tiếng Hy lạp ra tiếng Anh nên mới có bản dịch như ngày nay. Khi sách vừa được in xong, Ngài lại thêm vào đó những câu chú giải riêng của Ngài rất có giá trị. Trong kỳ xuất bản thứ nhứt, những lời chú giải này được in trên những trang giấy rời phía sau phết keo để dán lên đoạn đầu hay đoạn cuối sách vừa được in xong. Trong bổn in mà quí bạn đang đọc đây, những lời chú giải được xếp đặt vào chỗ thích hợp, nhưng chữ được xếp nhỏ hơn và có in chữ “Chú giải” ở phía trước mỗi lời chú giải.
Trong mỗi kỳ tái bản về sau, người ta thêm vào đó những chương với lời đề tựa “Bình Luận” và theo như tôi hiểu thì bà M.C. đã nghĩ rằng chính Chơn Sư Hilarion đã cảm hứng bà, giống như khi bà viết nội dung sách đó. Tuy nhiên, không phải đúng vậy đâu, vì bất cứ ai chịu khó đọc những lời bình luận ấy cũng sẽ nhận thấy rõ ràng tác giả thuộc về một môn phái Huyền bí học hoàn toàn khác biệt với môn phái các Chơn Sư chúng ta.
Bài luận văn ngắn và viết rất hay về “Nhân Quả” cũng do Chơn Sư Vénetian viết và được thêm vào kỳ xuất bản đầu tiên của cuốn sách này.
Cuốn Ánh Sáng Trên Đường Đạo là bài thứ nhất trong số ba bài luận văn hằng giữ một vị trí độc đáo trong văn chương Thông Thiên Học, đó là những lời chỉ đạo mà những vị đã đi trên Ðường Ðạo ban ra cho những kẻ muốn noi theo Ðường đó. Tôi nhớ ông Subba Row, đã quá cố, có một lần nói với chúng tôi rằng những qui luật này có nhiều mức độ ý nghĩa khác nhau. Ông nói ta có thể học đi học lại những qui luật ấy như những lời chỉ đạo thích hợp với mọi trình độ cao thấp.
Trước hết, chúng thích hợp với kẻ chí nguyện – đang đi trên con Ðường Nhập Môn, rồi kẻ nào đã thật sự bước vào con Ðường Thánh Ðạo lần thứ nhất, cũng học lại những qui luật này một lần nữa, nhưng ở một trình độ cao hơn. Người ta nói rằng sau khi đắc quả Chơn Tiên và đang tiến đến những quả vị cao hơn, hành giả vẫn có thể học lại những qui luật trên thêm một lần nữa, các qui luật này vẫn được coi như là những lời chỉ đạo với một ý nghĩa cao hơn. Theo cách đó, đối với những ai đã hiểu được trọn vẹn cái ý nghĩa thần bí của cuốn sách này, thì sách sẽ đưa họ đi xa hơn là bất cứ cuốn sách nào khác.
Rồi đến cuốn “Tiếng Nói Vô Thinh” do chính bà Blavatsky ghi chép lại cho chúng ta; thực ra sách này ghi chép ba bài thuyết pháp của Ðức Aryasanga, Vị Ðại Giáo Chủ (mà hiện nay chúng ta được biết là Chơn Sư Djwal Kul); sau này, ba bài thuyết pháp đó được đệ tử của Ngài là Alcyone nhớ và chép lại trên giấy. Sách ấy ghi những lời chỉ đạo khiến ta tiến đến quả vị một vị La Hán. Trên nhiều phương diện, sách được soạn thảo hoàn toàn khác với quan điểm của Chơn Sư Hilarion, thật vậy nếu người sinh viên cần mẫn so sánh những điểm giống nhau và khác nhau trong hai cuốn sách thì chắc đó phải là một công việc rất hứng thú.
Cuốn thứ ba trong loại sách hướng dẫn ta trên Ðường Ðạo mới vừa được Alcyone đưa ra; Alcyone chính là vị đã ghi chép dùm chúng ta các bài thuyết pháp của Ðức Aryasanga. Trong cuốn “Dưới Chơn Thầy”, Alcyone nhắc lại cho ta nghe những lời giáo huấn mà Chơn Sư Kuthumi mang ra dạy Alcyone – với mục đích chuẩn bị cho ông được Ðiểm Ðạo lần thứ nhất. Vì vậy, phạm vi cuốn sách thứ ba này nhỏ hẹp hơn các cuốn khác, nhưng nó lại có ưu điểm là vô cùng rõ ràng và giản dị, vì những lời giáo huấn trong sách phải làm sao cho một trí óc hồng trần rất non nớt có thể thông hiểu được.
Cuốn sách viết tay bằng tiếng Bắc Phạn tối cổ, là nguồn cội xuất xứ của cuốn “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” cũng được dịch ra tiếng Ai Cập, và nhiều lời giải nghĩa của Chơn Sư Vénetian có các âm thanh giáo lý của Ai Cập hơn là âm thanh giáo lý Ấn Ðộ. Dù Ai Cập hay Ấn Ðộ, thật là không còn có một viên ngọc báu nào quý giá hơn tác phẩm này trong văn chương Thông Thiên Học của chúng ta – không còn cuốn sách nào khác có thể đền bù xứng đáng cái công phu học hỏi tỉ mỉ và cần mẫn nhất của chúng ta. Nhưng xin hãy đọc đoạn văn trích trong lời nói đầu của cuốn “Dưới Chơn Thầy”.
“Thật là chưa đủ chút nào nếu ta chỉ nói suông rằng những lời dạy bảo này thật đúng chơn lý và tốt đẹp: ai muốn thành công thì phải thi hành và tuân theo đúng những lời chỉ dạy. Một người sắp chết đói mà chỉ nhìn ngó đồ ăn và nói suông rằng: Ðồ ăn ngon quá ! Thì hắn có no bụng được đâu ? Hắn phải thò tay gắp lấy ăn. Cũng giống như thế, thật là chưa đủ chút nào nếu quí bạn chỉ nghe thấy lời Chơn Sư dạy thôi; quí bạn phải thực hành điều Ngài dạy, phải theo dõi từng tiếng nói, phải nhận xét từng dấu hiệu bóng gió xa xôi. Nếu quí bạn bỏ qua một dấu hiệu hay một tiếng nói, thì dấu hiệu hay tiếng nói này sẽ mất đi mãi mãi, vì Chơn Sư không bao giờ nói hai lần.”
Ðược soạn thảo với mục đích rõ rệt là thúc đẩy sự tiến hóa của những kẻ đang đi trên đường Ðạo, các cuốn sách này đưa ra những lý tưởng mà người thế gian ít khi được chuẩn bị để có thể chấp nhận chúng. Con người chỉ thực sự hiểu các lời giáo huấn nếu y áp dụng chúng trong đời sống. Nếu y không thực hành những lời giáo huấn thì y không sao hiểu được cuốn sách này, và sẽ nghĩ rằng đây là một cuốn sách vô ích và không thực tế. Nhưng nếu quí bạn thành thực cố gắng sống theo sách này thì ánh sáng sẽ chiếu rọi vào sách ngay. Chúng ta chỉ có thể thưởng thức viên ngọc báu vô giá này theo cách đó mà thôi.
C.W. LEADBEATER
PHẦN THỨ NHỨT
Mấy quy tắc nầy viết cho tất cả các đệ tử : Con hãy tuân theo.
Trước khi được thấy được, mắt phải ráo lệ.
Trước khi được nghe, tai phải thản nhiên.
Trước khi được nói trước các Chơn Sư, lưỡi phải hết năng lực làm làm tổn thương kẻ khác.
Trước khi được đứng trước các Chơn Sư, Linh Hồn phải rửa chân trong máu của trái tim.
1.- Hãy diệt lòng tham vọng. (Kill out ambition)
Chú giải: Lòng tham vọng là mối hại đầu, là tay cám dỗ mạnh nhất khi con người vượt lên trên đồng loại. Hình thức đơn giản nhất của lòng tham vọng là muốn được thưởng công : vì lòng tham vọng mà người có trí, có tài luôn luôn xa lìa những mục đích cao siêu. Tuy nhiên, lòng tham vọng là một ông thầy cần thiết. Sở vọng khi đã đắc thành thì vẻ đáng yêu không còn nữa (biến thành tro bụi) giống như sự tử vong, ly biệt, chung quy chỉ cho con người thấy rõ: lo cho mình là đi đến thất vọng.
Quy tắc thứ nhứt nầy xem qua dường đơn giản và dễ dàng, nhưng con đừng vội bỏ qua. Bởi vì những tính xấu của hạng người thường biến hình một cách tế nhị và thể hiện trở lại dưới một hình thức khác nơi tâm người đệ tử. Ai cũng có thể nói: “Tôi không tham vọng”, nhưng không dễ gì mà nói được: “Khi Đức Thầy xem rõ lòng tôi, Ngài sẽ thấy lòng tôi hoàn toàn trong sạch”. Người nghệ sĩ chân chính vì yêu nghệ thuật mà làm việc, đôi khi còn đi đúng con đường chính hơn nhà huyền bí học tưởng mình là người siêu thoát, đã rời bỏ bản ngã, nhưng thực sự họ chỉ mở rộng biên giới của kinh nghiệm, của dục vọng và chú ý đến những điều khác của đời sống mình rộng lớn hơn. Nguyên tắc nầy cũng áp dụng cho hai quy tắc có vẻ đơn giản dưới đây. Hãy suy gẫm để hiểu sâu xa và chớ để cho lòng mình dối mình một cách dễ dàng. Vì hiện nay nơi ngưỡng cửa, một sự lầm lỗi còn có thể sửa đổi. Nhưng nếu con dung dưỡng nó trong lòng thì nó sẽ một ngày một lớn, đơm bông, kết trái, chừng đó con phải vô cùng đau đớn mới diệt nó được.
2.- Hãy diệt lòng tham sống. (Kill out desire of life)
3.- Hãy diệt lòng tham sung sướng. (Kill out desire of comfort.)
4.- Hãy làm việc như những kẻ còn đầy tham vọng. Hãy kính trọng sự sống như những người đầy lòng tham sống. Hãy vui sướng như những kẻ sống như để hưởng vui sướng.
Hãy tìm trong tâm nguồn gốc của tội lỗi và diệt nó đi. Tội lỗi sống, đâm chồi mọc nhánh trong tâm kẻ đệ tử chân thành cũng như trong tâm người tham vọng. Chỉ có kẻ cương quyết mới diệt nó được. Còn kẻ yếu đuối thì chờ đợi cho nó tăng trưởng, cho nó xum xuê, cho nó chết; nó là một loại cây cứ sống và lớn dần kiếp nầy sang kiếp khác. Nó tạo quả khi con người đã sống chồng chất trong vô số kiếp. Kẻ muốn để chân vào đường đạo pháp phải nhổ hết gốc rễ nó trong tâm mình. Như thế tâm can sẽ đổ máu và trọn sự sống của con người dường như tiêu tan hết. Đó là cuộc thử lòng phải chịu; nó có thể xảy ra ở nấc đầu trên cái thang nguy hiểm đưa đến con đàng sống; nó có thể để trễ lại nấc thang chót. Nhưng hỡi đệ tử, con hãy nhớ là con cần phải chịu cuộc thử lòng đó, và con hãy tập trung tất cả mãnh lực của tâm hồn vào công việc đó. Con chớ sống trong hiện tại, cũng đừng sống trong tương lai mà hãy sống trong Vĩnh cửu. Thứ cỏ hoang to lớn đó không thể trổ bông nơi đây; chỉ có bầu không khí của tư tưởng vô thủy vô chung mới tẩy sạch được vết nhơ bẩn của sự sanh tồn.
5.- Hãy diệt mọi ý thức chia rẽ. (Kill out all sense of separateness)
Chú giải : Con chớ tưởng là con có thể sống riêng biệt với những kẻ hung dữ, hạng người điên dại. Họ chính là con đó, mặc dầu họ ở trình độ kém hơn người bạn hoặc Đức Thầy của con. Nhưng nếu con để nảy sinh cái ý nghĩ con không liên đới với một điều nào hoặc một tội lỗi nào tức là con tạo ra một nghiệp quả, nó sẽ buộc con vào điều đó hoặc người đó, cho đến ngày nào tâm hồn con nhận thấy rằng nó không thể sống riêng rẽ được. Con hãy nhớ rằng tội lỗi và nhục nhã của đời là tội lỗi và nhục nhã của con, bởi vì con là một phần tử của thế gian; nghiệp quả của con dệt chung và không thể tách rời Đại Nghiệp Quả được. Trước khi con được giác ngộ, con phải trải qua mọi chỗ dơ cũng như chỗ sạch. Như thế con hãy nhớ rằng cái áo dơ mà bây giờ con nhìn gớm có thể là cái áo của con bữa qua hoặc bữa mai. Nếu con tỏ vẻ ghê sợ, thì khi nó đặt lên vai con, nó sẽ càng bó chặt lấy con hơn. Kẻ nào có lòng tự kiêu về đức hạnh của mình tức là dọn cho mình một chỗ trong vũng bùn nhơ. Con tránh, vì đó là điều nên tránh chớ chẳng phải để giữ cho con được trong sạch.
6.- Hãy diệt ý muốn cảm giác. (Kill out desire for sensation)
7.- Hãy diệt lòng khao khát tăng trưởng. (Kill out hunger for growth.)
Tuy nhiên con hãy sống một mình cô đơn, bởi vì không sắc tướng nào hay thứ gì ở ngoài Đấng Thượng Đế có thể giúp con được. Con hãy xem xét cảm giác để hiểu biết nó, bởi vì chỉ có làm như thế con mới có thể bắt đầu khoa học tự tri, và đặt chân lên nấc thang đầu. Con hãy tăng trưởng như đóa hoa, nó nảy nở một cách vô tâm, nhưng tha thiết mở hồn ra với không khí. Con phải làm cho tâm hồn con mở ra với Ðấng Vô Cùng như thế đó. Nhưng con phải vì lòng ngưỡng mộ Đấng Vô Cùng mà phát triển năng lực và nét xinh tươi, chớ chẳng phải vì ý muốn được tăng trưởng. Bởi vì, trong trường hợp thứ nhứt con phát triển với một tấm lòng thanh khiết tốt tươi; còn trong trường hợp thứ nhì, con chỉ làm cho kiên cố và làm tăng thêm lòng vị kỷ.
9.- Chỉ nên muốn thứ gì ở nơi con. (Desire only that which is within you)
10.- Chỉ nên muốn thứ gì ở ngoài con. (Desire only that which is beyond you)
11.- Chỉ nên muốn thứ gì không thể đạt được. (Desire only that which is unattainable).
12.- Bởi vì ở nơi con có ánh sáng của thế giới, cái ánh sáng duy nhất có thể chiếu rải trên Ðường Ðạo. Nếu con không đủ sức nhận thấy ánh sáng đó nơi con, thì đừng tầm kiếm nó ở đâu vô ích. Nó ở ngoài con bởi vì khi con đến được tới nó thì con đã mất bản ngã của con rồi. Nó không thể đạt được bởi vì nó cứ lùi xa mãi. Con sẽ bước vào trong ánh sáng, nhưng con không bao giờ rờ được Ngọn Lửa Thiêng.
13.- Hãy muốn quyền năng một cách hăng hái. (Desir power ardently).
14.- Hãy muốn an tịnh một cách chân thành. (Desir peace fervently).
15.- Hãy muốn chiếm hữu trên tất cả mọi vật. (Desir possessions above all).
16.– Nhưng mà những sở hữu đó phải hoàn toàn là sở hữu của Linh Hồn trong sạch, và do đó, tất cả những Linh Hồn trong sạch đồng hưởng như nhau, và chỉ khi nào tất cả đã hợp nhất thì những sở hữu đó mới là sở hữu của tất cả. Hãy khao khát những sở hữu mà Linh Hồn trong sạch có thể gìn giữ được, như thế con có thể xúc tích của quý báu cho tinh thần hợp nhất của sự sống, đó thật là Chơn Ngã của con. Sự an tĩnh mà con nên ao ước là sự an tĩnh thiêng liêng không thứ gì làm rối loạn được, và trong sự an tĩnh đó Linh Hồn tăng trưởng như đóa hoa thiêng mọc trong đầm phẳng lặng. Quyền năng mà con nên ao ước là quyền năng làm cho thiên hạ xem con chẳng ra chi.
17.- Hãy tìm Ðạo. (Seek out the way).
Chú giải : Ba chữ nầy xem dường không mấy quan trọng để đứng riêng thành một qui tắc. Người Ðệ Tử có thể nói: “Nếu tôi không tìm Ðạo, thì tôi đâu có phí công nghiền ngẫm những tư tưởng đó ?” Tuy nhiên, con chớ vội sang qua qui tắc khác. Con hãy dừng lại và suy nghĩ trong giây lát. Có thật con hết lòng mộ đạo chăng ? Hay là con mơ màng những nấc thang cao vót mà con sẽ leo đến, hay một tương lai sáng lạn mà con sẽ thực hiện ? Con hãy coi chừng. Con phải vì Ðạo mà tìm Ðạo chớ chẳng phải vì những bước đường tiến hóa mà con sẽ để chân tới.
Có một sự liên quan giữa qui tắc này và qui tắc 17 của phần thứ nhì. Sau khi trải qua nhiều thế kỷ chiến đấu và nhiều trận chiến thắng, con thắng được trận cuối cùng và đòi hỏi bí quyết cuối cùng, thì bấy giờ con hãy tiến xa hơn nữa. Khi bí quyết cuối cùng của bài học cao siêu này được tiết lộ, thì đệ tử sẽ tìm thấy trong đó bí quyết của con đường mới – con đường dắt đến trạng huống ở ngoài mọi sự kinh nghiệm của loài người và hoàn toàn ở ngoài tất cả sự tri giác và tưởng tượng của loài người. Ở mỗi đoạn đường cần phải dừng lại thật lâu và suy nghĩ thật kỹ. Ở mỗi đoạn đường cần phải hỏi mình xem có chắc chắn là vì Ðạo mà tìm Ðạo chăng ? Con đường và sự thật hiện ra trước, kế đó đến sự sống.
18.- Hãy tìm đạo bằng cách hướng vào nội tâm. (Seek the way by retreating within).
19.- Hãy tìm đạo bằng cách can đảm tiến ra ngoài. (Seek the way by advancing boldly without).
20.- Con chớ nên tìm đạo bằng một con đường thôi. Mỗi người, mỗi khí chất và đối với mỗi khí chất dường như có một con đường thích ý nhất. Nhưng con không thể đạt đạo chỉ bằng một sự chuyên tâm sùng bái, hoặc bằng một sự chuyên tâm thiền định hoặc bằng tấm lòng hăng hái quyết tiến, hoặc bằng xả kỷ hy sinh làm việc hoặc bằng quan sát sự đời. Mỗi con đường chỉ có thể giúp cho kẻ đệ tử vượt qua một nấc thang mà thôi; tất cả các nấc thang đều cần thiết để tạo thành một cái thang. Những tính xấu của con người biến thành từng những nấc thang mỗi khi con người vượt qua được chúng nó. Những tính tốt của con người cũng là những nấc thang cần thiết không thể không có. Tuy nhiên, dù tính tốt tạo ra một không khí thuận lợi và một tương lai tốt đẹp, nếu chỉ có tính tốt không thì không ích gì. Kẻ nào muốn bước vào đường đạo phải biết lợi dụng trọn cả bản tính con người của mình một cách khôn ngoan. Đối với mỗi người tìm đạo thì chính mình là con đường, là sự thật, là sự sống, nhưng muốn được thế con phải thấu triệt trọn cả cá tính của con và nhờ đạo tâm tỏ ngộ, con nhận thấy cá tánh không phải là con mà là một vật do con khó nhọc tạo ra để xử dụng, và nhờ nó để đạt đến sự sống ở ngoài cá tính, khi con dần dần phát triển trí thông minh. Khi con biết được vì lẽ đó mới có sự sống riêng tư, lạ lùng và phức tạp, – thì bây giờ và chỉ lúc đó con mới thật sự bước vào đường Đạo. Hãy tìm Đạo bằng cách đi sâu vào chốn uyên thâm huyền bí và vinh quang của chính con người mình. Hãy tìm Đạo bằng cách phân tích mọi kinh nghiệm, xử dụng các giác quan để hiểu biết sự tăng trưởng và ý nghĩa của cá tính, hiểu biết vẻ tốt đẹp và sự tối tăm của những Điểm Linh Quang đương phấn đấu khó nhọc bên cạnh con, cùng một nòi giống với con. Hãy tìm Đạo bằng cách nghiên cứu những định luật sinh tồn, những định luật Thiên Nhiên và những định luật siêu nhiên. Hãy tìm Đạo bằng cách kính cẩn phục tòng ngôi sao lập lòe phát hiện trong tâm. Dần dần khi con càng để ý ngóng trông, ngưỡng mộ thì ánh sáng ngôi sao càng tỏ rạng hơn. Bấy giờ thì con có thể biết là con đã tìm được con đường Đạo, và khi con đi tới mút con đường thì ánh sáng bỗng nhiên biến thành ánh sáng vô lượng vô biên.
Chú giải : Hãy đi tìm Đạo, bằng cách phân tách tất cả các kinh nghiệm và con nên nhớ rằng, khi nói như thế, ta không bảo con: “Hãy nghe theo sự cám dỗ của giác quan hầu hiểu biết nó như thế nào”. Con có thể làm như vậy trước khi học đạo, nhưng bây giờ thì không. Khi con đã có chí để chân vào đường đạo, con không thể sa ngã mà không hổ thẹn. Tuy nhiên, con có thể càm thấy bị cám dỗ mà không kinh sợ; con có thể cân nhắc quan sát, phân tách nó và tự tin nhẫn nại, chờ đợi tới khi nó không còn ảnh hưởng được con nữa. Nhưng con chớ lên án những ai sa ngã, con hãy đưa tay cho họ nắm lấy như đối với một người anh em đồng hành chân còn vương nặng bùn nhơ. Hỡi đệ tử ! con hãy nhớ rằng cái hố giữa người đức hạnh và kẻ tội lỗi tuy lớn, nhưng giữa kẻ đức hạnh và người đã đến bờ giác sự phân cách lại còn rộng lớn hơn nhiều, và giữa người đức hạnh và người sắp lên địa vị thần minh sự phân cách thật không bờ bến. Vì thế con nên thận trọng, nếu không con tưởng là con đã vượt lên khỏi quần chúng. Khi con bắt đầu tìm thấy con đường Đạo thì ngôi sao của linh hồn sẽ chói sáng lên và nhờ ánh sáng đó, con sẽ nhận thấy sự dày đặc lớn lao của cảnh tối tăm xung quanh. Lý trí, tâm tình, đầu óc, tất cả đều tối tăm mù mịt cho đến khi con thắng được trận đại chiến đầu tiên. Con chớ kinh khủng sợ hãi trước cảnh đó, mắt con cứ chăm chăm nhìn vào ánh sáng nhỏ nhen và nó sẽ lớn dần. Nhưng nhờ thấy cảnh tối tăm nơi con, con mới hiểu cảnh khốn khổ của những kẻ không thấy một chút ánh sáng nào và linh hồn họ chìm trong bóng tối. Con chớ trách họ. Con chớ nên ngoảnh mặt làm ngơ, mà hãy gắng sức nâng đỡ cái nghiệp quả nặng nề của cõi đời đôi chút, con hãy phụ lực với vài bàn tay mạnh mẽ đương ngăn cản không cho những thế lực hắc ám được hoàn toàn thắng thế. Bây giờ con gia nhập một đoàn thể vui vẻ, nơi đó hiển nhiên là con phải gánh vác một công việc nặng nề ghê gớm và buồn thảm vô ngần, nhưng cũng đem lại hạnh phúc tuyệt trần luôn luôn tăng trưởng.
21.- Con hãy xem hoa nở trong cảnh êm lặng sau cơn giông tố, mà trước đó không khi nào có được. Thân hoa sẽ mọc, sẽ lớn, sẽ sanh cành, sanh lá, và nẩy mầm giữa cơn giông tố trọn cả thời kỳ chiến đấu. Nhưng hoa không khi nào nở trước lúc bản ngã tiêu tan và tận diệt; hoặc trước khi điểm Chơn linh đã tạo ra nó, coi nó như cuộc thử sức và kinh nghiệm nghiêm trọng, trước khi trọn cả tâm phàm quy phục Chơn Ngã cao siêu. Bây giờ sẽ hiện ra một cảnh yên tịnh, mường tượng như cảnh sau cơn mưa lớn ở miền nhiệt đới, mưa tạnh gió tan, cảnh vật đổi thay trong chốc lát. Tinh Thần sau cơn tả tơi với mưa sa, gió táp, bỗng nhiên yên tịnh và trong chốn yên lặng tuyệt vời một cảnh nhiệm mầu phát hiện, khiến cho linh hồn biết rằng mình đã tìm ra mối đạo. Con muốn gọi nó là gì tùy ý, đó là tiếng nói cất lên ở nơi không có người nào cả, đó là một sứ giả giáng lâm, vị sứ giả không hình không bóng, hay đó là đóa hoa linh hồn đã nở. Không có cách nói bóng dáng nào miêu tả được điều này. Nhưng người ta có thể cảm biết được sau khi tìm kiếm nó, mong ước nó mặc dầu đang sống giữa cảnh ba đào khủng khiếp. Cảnh yên lặng có thể phát hiện trong giây lát hay có thể kéo dài đến cả ngàn năm. Nhưng rồi nó sẽ chấm dứt. Tuy nhiên, con còn giữ được mãnh lực của nó nơi lòng. Con còn phải bao phen chiến đấu và chiến thắng. Thiên nhiên chỉ có thể tạm yên trong một khoảnh thời gian thôi.
Chú giải : Hoa nở tức là cái phút huy hoàng giác ngộ, đem đến cho đệ tử đức tự tin, hiểu biết xác tín. Linh hồn trong giây lát sững sờ, lạ lùng, sau đó là niềm hoan hỉ, đó là cảnh yên tịnh.
Hỡi đệ tử, con nên biết rằng những ai đã trải qua cảnh yên tĩnh, đã nếm được sự an vui, và gìn giữ được mãnh lực của nó, những kẻ đó mong ước cho con cũng được sống qua cảnh đó. Bởi thế khi đệ tử đã đủ sức bước vào Ðền Minh Triết thì luôn luôn sẽ gặp Ðức Thầy ở đó.
Kẻ nào hỏi, tất sẽ được. Nhưng kẻ phàm nhân hỏi mãi cũng chẳng ai nghe. Vì họ chỉ hỏi bằng lý trí và tiếng của lý trí tác động ở cõi trí mà thôi. Bởi thế ta chờ đến khi 21 qui tắc đầu qua, rồi mới nói rằng kẻ nào hỏi tất sẽ được.
Đọc theo nghĩa huyền bí, là đọc với con mắt tinh thần. Hỏi, tức là cảm thấy khao khát trong thâm tâm, thiết tha với nguyện vọng tinh thần. Có sức đọc được tức là đã có năng lực để thoả mãn sự khao khát đó một đôi phần. Khi đệ tử đã sẵn sàng để học, thì lúc đó đệ tử được Đức Thầy thu nhận, tiếp rước và thừa nhận. Ðó là việc dĩ nhiên, bởi vì người đệ tử đã thắp sáng ngọn đèn của mình và không thứ gì có thể che án ngọn đèn đó. Nhưng trước khi thắng được trận đại chiến đầu tiên thì không thể nào học được. Lý trí có thể nhìn nhận sự thật, nhưng tinh thần chưa tiếp nhận được. Một khi đã trải qua cơn giông tố và tìm được sự an tịnh, thì từ đó, lúc nào người đệ tử cũng có thể học, mặc dù còn phân vân, ngập ngừng và ra khỏi con đường chánh. Tiếng Nhiệm Mầu vẫn ở nơi tâm đệ tử, và dù đệ tử bỏ hẳn Ðường Ðạo đi nữa, thì rồi một ngày kia tiếng đó sẽ trổi lên, cắn rứt tâm hồn, chia đôi tình dục với thiên lương. Bây giờ mặc cho phàm nhân kêu la tuyệt vọng, đệ tử sẽ về với Ðạo.
Vì thế ta nói: “Ước mong con được an vui”. Câu “Ta ban cho con sự an vui của Ta”, chỉ để cho Đức Thầy dùng nói với những đệ tử yêu quí đã giống như Thầy. Câu trên đây cũng có thể nói đi nói lại hàng ngày một cách đầy đủ hơn với những kẻ chưa từng biết sự Minh Triết Ðông Phương.
Con hãy xem xét ba Chơn lý(1). Tất cả đều bằng nhau.
Chú thích
(1)
Ba chơn lý Đức Chơn Sư nói đây có kể ở chương thứ tám, của quyển “Mối tình của bông sen trắng”, một cuốn sách cũng do Ngài truyền lại : có ba chơn lý tuyệt đối, không thể nào để mất được. Tuy nhiên vì không có lời diễn tả ra nên bị chìm trong yên lặng.
a- Linh hồn con người vốn bất tử và tương lai của nó phát triển huy hoàng không biên giới.
b- Nguyên lý sanh ra sự sống ở nơi chúng ta và ở ngoài chúng ta, nguyên lý đó không khi nào chết, đời đời ban phước; nó không sao thấy được, nghe được, cảm giác được nhưng kẻ nào muốn nhận thức nó sẽ nhận thức được.
c- Mỗi người đều là người lập luật lệ cho chính mình một cách tuyệt đối, vừa là người ban phát sự vinh quang hay sự tối tăm cho mình, vừa là người cầm vận mạng mình, thưởng, phạt mình.
Ba Chơn lý nầy lớn lao như sự sống mà cũng giản dị như một tâm hồn giản dị nhất. Hãy dùng nó làm món ăn cho kẻ đói.