Loading...
Cộng đồng thiền Việt Nam

Chi hội phát triển cộng đồng thiền Việt Nam

Cộng đồng thiền Việt Nam

image-alt-text

Chương III: Những Ngày Học Y – Bác Sĩ Đến Từ Lhasa – Lobsang Rampa

Chương III: Những Ngày Học Y – Bác Sĩ Đến Từ Lhasa – Lobsang Rampa

16:18 30/10/2020

Một làn sương mù ẩm ướt, xám xịt tràn xuống từ những ngọn đồi phía trên Trùng Khánh, che phủ những ngôi nhà, dòng sông, và cột buồm của những chiếc thuyền thấp bên dưới, biến ánh đèn trong các cửa hiệu thành màu vàng cam mờ nhạt, làm im ắng cả những âm thanh, có lẽ còn cải thiện dáng vẻ bề ngoài của Trùng Khánh. Có tiếng bước chân lết trên đường, một cụ già lưng còng xuất hiện lờ mờ qua làn sương mù, rồi nhanh chóng biến mất.

Có một sự im lặng kỳ lạ ở nơi đây, âm thanh duy nhất chỉ là những tiếng văng vẳng. Sương mù giống như một tấm chăn dày làm yên lặng tất cả. Huang và tôi vừa kết thúc một ngày học, và bây giờ đã tối muộn. Chúng tôi quyết định đi ra ngoài trường đại học, ra khỏi những phòng mổ, để hít thở không khí trong lành. Nhưng thay vào đó, chúng tôi lại gặp phải sương mù. Tôi cảm thấy đói. Huang rõ ràng cũng vậy.  Sự ẩm ướt thấm vào tận trong xương làm chúng tôi lạnh cóng. Huang nói :

A DANK, grey fog came down from the hills above Chungking, blotting out the houses, the river, the masts of the ships down below, turning the lights in the shops to orange-yellow blurs, deadening the sounds, perhaps even improving the appearance of part of Chungking. There was the slithering sound of footsteps and a bent old man came dimly into sight through the fog, and was as quickly lost to view again.

It was strangely silent here, the only sounds were muffled sounds. The fog was as a thick blanket deadening all. Huang and I had finished our classes for the day and it was now late evening. We had decided to go out from the college, from the dissecting rooms, and get a breath of fresh air. Instead we had got this fog. I was feeling hungry; apparently so was Huang. The dampness had got into our bones and chilled us.

– Chúng ta đi ăn đã, Lobsang. Tớ biết một chỗ rất ngon.

– Cũng được, tôi trả lời. Tớ luôn sẵn sàng cho những điều thú vị. Cậu có gì muốn chỉ cho tớ vậy?

– Ồ, tớ muốn chỉ cho cậu thấy rằng ở Trùng Khánh chúng tớ sống rất tốt mặc cho cậu nói gì.

“Let us go and have some food, Lobsang. I know a good place,” said Huang. “All right,” I answered. “I am always ready for something interesting. What have you got to show me?” “Oh, I want to show you that we in Chungking can live quite well in spite of what you say.”

Cậu quay lại và dẫn đường, hay đúng hơn, quay lại và mò mẫm cho đến khi chúng tôi đến vỉa hè và có thể xác định được các cửa hàng. Chúng tôi đi xuống dốc một chút và sau đó đi qua một cái cổng giống như một cái hang động trên vách núi. Ở bên trong, không khí thậm chí còn mờ mịt hơn cả bên ngoài. Người ta hút thuốc, phả ra những đám khói lớn có mùi thật khủng khiếp. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy nhiều người hút thuốc như vậy, cũng khá mới lạ, đúng hơn là khá nôn nao, khi thấy những người này ngậm những khúc củi cháy dở trong miệng, và khói tuôn ra qua lỗ mũi của họ. Một người đàn ông thu hút ánh nhìn của tôi. Ông ta phả khói không chỉ từ lỗ mũi mà từ cả tai nữa.

Tôi chỉ ngay cho Huang.

He turned and led the way, or rather he turned and groped blindly till we reached the side of the street and were able to identify the shops. We went down the hill a little way and then through an entrance which appeared to be remarkably like a cavern in the side of a mountain. Inside the air was even thicker than outside. People were smoking, belching great clouds of evil smelling fumes. It was almost the first time I had seen such a number of people smoking, it was quite a novelty—a nauseating one—to see people with burning brands in their mouth, and smoke trickling out of their nostrils. One man attracted my fascinated gaze. He was producing smoke not just from his nostrils, but from his ears. I pointed him out to Huang.

– Ồ, ông ta ấy hả, cậu nói, ông ta điếc lòi, cậu biết đấy. Màng nhĩ của ông ta đã bị hỏng. Nhưng nó lại là vật báu đối với ông ta. Không có màng nhĩ để cản trở khói, ông ta đẩy nó ra ngoài mũi và cả tai nữa. Ông ta có thể đến gặp những người nước ngoài và nói, ‘Cho tôi một điếu thuốc và tôi sẽ cho anh thấy điều mà anh không thể làm được.’ Mà thôi kệ ông ta đi. Đấy đã là gì. Hãy xem món ăn đã. Tớ sẽ gọi món.

Huang nói tiếp:

– Tớ là khách quen ở đây và chúng ta sẽ có những món ăn ngon nhất với giá thấp nhất.

“Oh, him,” he said, “he’s stone deaf, you know. Had his ear-drums kicked in. It’s quite a social asset with him. No eardrums to impede the smoke, so he sends it out of his nostrils and out of his ears too. He goes up to a foreigner and says, ‘Give me a cigarette and I’ll show you something you can’t do’. Keeps him in smokes, that. Still that’s nothing. Let’s get on with the food. I’ll order the meal,” said Huang. “I am well known here and we shall get the best at the lowest price.”

Điều này thật hợp ý tôi, mấy ngày qua tôi chẳng ăn được mấy, mọi thứ đều mới lạ, và thực phẩm cũng hoàn toàn lạ lẫm. Huang gọi món với một trong những người phục vụ đang loáy hoáy ghi lên một tập giấy nhỏ, rồi sau đó chúng tôi ngồi xuống và nói chuyện.

Thực phẩm là một trong những khó khăn của tôi. Tôi không thể kiếm được những loại thực phẩm mà tôi vốn quen thuộc, và tôi cũng phải ăn thịt và cá. Đối với tôi, một Lạt ma Tây Tạng, điều này thực sự khó chịu, nhưng tôi đã được các vị Lạt Ma cao cấp ở cung điện Potala tại Lhasa dặn dò rằng tôi sẽ phải làm quen với những thực phẩm xa lạ, và tôi đã được xá tội cho những loại thức ăn mà tôi sẽ phải tiêu thụ. Ở Tây Tạng, chúng tôi, những nhà sư, không ăn thịt nhưng đây không phải là Tây Tạng, và tôi phải tiếp tục sống để thực hiện nhiệm vụ đã được giao phó. Không có cách nào để kiếm được những thức ăn mà tôi cần, vì vậy tôi sẽ phải ăn những món hổ lốn được mang đến cho tôi và giả bộ như tôi thích chúng.

It suited me fine. I had not eaten too well during the past few days, everything was so strange, and the food so utterly alien. Huang spoke to one of the waiters who made notes on a little pad, and then we sat down and talked. Food had been one of my problems. I could not obtain the type of food to which I was accustomed, and I had to eat, among other things, flesh and fish. To me, as a lama of Tibet, this was truly revolting, but I had been told by my seniors at the Potala in Lhasa that I would have to accustom myself to alien foods, and I had been given absolution from them for the type of food I should consume. In Tibet we, the priests, ate no meat but—this was not Tibet, and I had to continue to live in order to fulfil my allotted task. It was possible to obtain the food I wanted, and so I had to eat the revolting messes brought me and pretend that I liked them.

Bữa ăn của chúng tôi đã được mang đến. Một nửa con rùa bao quanh là những con ốc biển, và theo sau là một đĩa ếch nấu cà ri với bắp cải xếp xung quanh. Chúng khá ngon lành nhưng tôi thích món tsampa của tôi hơn. Thôi thì cứ làm điều tốt nhất trong khuôn khổ cho phép, tôi ăn món cà ri ếch cùng với mì và cơm.

Chúng tôi uống trà. Một thứ tôi nhất định không bao giờ động đến bất chấp tất cả những lời cổ vũ của những người bên ngoài Tây Tạng là đồ uống có cồn. Không bao giờ, không bao giờ và không bao giờ. Trong tín ngưỡng của chúng tôi không gì tồi tệ hơn là những đồ uống gây say, không có gì xấu xa hơn là say rượu. Say rượu, theo chúng tôi đánh giá, là tội lỗi xấu xa nhất bởi vì khi cơ thể bị u mê vì rượu thì thể vía, phần tinh thần cao hơn của một người, sẽ bị đưa ra khỏi cơ thể vật lý và phải để lại thể xác làm mồi cho những thực thể đang rình rập. Đây không phải là cuộc sống duy nhất; cơ thể vật lý chỉ là một biểu hiện đặc biệt, một biểu hiện thấp nhất, và uống càng nhiều thì lại càng gây hại cho các thể trong những cảnh giới khác.

Rõ ràng là một người say rượu hay  nhìn thấy “ảo giác” và những điều kỳ lạ không gì sánh được trong thế giới vật chất.

Chúng tôi tin rằng đó là sự can thiệp của những thực thể xấu xa, những kẻ đang cố xui khiến cơ thể vật lý làm những điều tệ hại. Ai cũng biết là những người say rượu không thể “làm chủ được ý thức của họ một cách đúng đắn.” Vì thế, Tôi không bao giờ đụng đến đồ uống gây say, thậm chí là rượu ngô, hay cả rượu gạo cũng vậy.

Our lunch arrived. A half-tortoise surrounded with sea slugs, and followed by a dish of curried frogs with cabbage leaves around them. They were quite pleasant but I would have much preferred my own tsampa. So, making the best of things, I had my meal of curried frogs well supported with noodles and rice. We drank tea. One thing I have never touched in spite of all exhortations from those outside of Tibet have been intoxicating liquors. Never, never, never. In our belief there is nothing worse than these intoxicating drinks, nothing worse than drunkenness. Drunkenness, we consider, is the most vicious sin of all because when the body is sodden with drink the astral vehicle—the more spiritual part of one—is driven out of the physical and has to leave it as prey to any prowling entities. This is not the only life; the physical body is just one particular manifestation, the lowest manifestation, and the more one drinks, the more one harms one’s body in other planes of existence. It is well known that drunkards see “pink elephants” and curious things which have no parallel in the physical world. These, we believe, are the manifestations of some evil entity, some entity who is trying to make the physical body do some harm. It is well known that those who are drunk are not “in possession of their right senses.” So—I have not at any time touched intoxicating drinks, not even corn spirit, not even rice wine.

Vịt quay là một món ăn rất hấp dẫn đối với những người thích ăn thịt. Tôi thì thích ăn măng hơn, tất nhiên nó rất khó kiếm ở phương Tây. Loại rau gần nhất có thể thay thế cho nó  là cần tây mọc ở một nước châu Âu. Cần tây Anh hoàn toàn khác và không phù hợp lắm. Nhân nói về ẩm thực Trung Hoa, có thể bạn sẽ muốn biết rằng không có món nào được gọi là món chop suey ; đó chỉ là một cái tên, một cái tên chung cho nhiều món ăn Trung Quốc, hay cho BẤT KỲ món Trung Quốc nào.

Nếu ai đó muốn có một bữa ăn Trung Quốc thực thụ họ cần phải đi đến một nhà hàng Hoa hạng sang chính cống và ăn món ra-gu nấm và măng. Sau đó họ nên ăn canh cá. Tiếp theo là vịt quay. Bạn sẽ không cần đến dao dĩa trong nhà hàng Hoa thứ thiệt, người phục vụ sẽ mang ra một con dao chặt thịt và anh ta sẽ chặt nhỏ con vịt ra thành những miếng vừa ăn với bạn. Khi bạn đã vừa ý, chúng sẽ được cuốn với một nhánh hành non và kẹp vào trong một miếng bánh bao, loại không có men. Người ta sẽ cầm những cái bánh này lên và cắn ngập miệng.

Bữa ăn nên kết thúc với lá sen, hoặc, nếu bạn thích thì với ngó sen. Một số người thích hạt sen hơn, nhưng cho dù thứ nào đi nữa thì bạn cũng sẽ cần trà Hoa. Đây là bữa ăn mà chúng tôi đã thưởng thức trong nhà hàng quen thuộc của Huang. Giá cả hợp lý đến đáng ngạc nhiên và cuối cùng, khi chúng tôi đứng lên để tiếp tục hành trình, chúng tôi hoàn toàn vui vẻ, nhẹ nhõm, và khỏe khoắn nhờ thức ăn ngon, để rồi lại bước ra ngoài và đối mặt với sương giá.

Lacquered duck is a very nice form of food—for those who like meat, that is. I much preferred bamboo shoots; these are unobtainable in the West, of course. The nearest substitute to it is a form of celery which grows in a certain European country. The English celery is quite different and is not so suitable. While discussing Chinese food it is possibly of some interest to say that there is no such dish as chop suey; that is just a name, a generic name for Chinese food, ANY Chinese food. If anyone wants a really good Chinese meal they should go to a first class all-Chinese restaurant and have ragout of mushroom and bamboo shoot. Then they should take a fish soup. After that, lacquered duck. You will not have a carving knife in the real Chinese restaurant, but the waiter will come along with a small hatchet and he will chop up the duck for you into suitably sized slices. When these are approved by you they will be wrapped up with a piece of young onion into a sandwich of unleavened bread. One picks up these small sandwiches and devours each at a mouthful. The meal should end with lotus leaves, or, if you prefer, lotus root. Some people prefer lotus seed, but whichever it is you will need adequate quantities of Chinese tea. This is the type of meal we had in that eating house so well known to Huang. The price was surprisingly reasonable and when eventually we rose to continue our journey we were in quite a blissful state of geniality, well padded, and well fortified with good food to go out again and face the fog.

Chúng tôi đi lên phố, dọc theo con đường tới Gia Linh, được một đoạn chúng tôi rẽ phải đi vào đường mòn dẫn đến ngôi chùa của chúng tôi.

Chúng tôi trở về đúng giờ cầu nguyện. Những tấm bài vị treo ủ rũ dựa trên những cây cột. Không có gió và những đám khói hương trầm cũng gần như treo bất động. Những tấm bài vị bằng màu đỏ với những chữ Hán màu vàng trên đó, là những tấm bài vị của Tổ tiên được sử dụng giống như bia mộ tưởng nhớ người đã mất ở các nước phương Tây. Chúng tôi kính cẩn cúi lạy Phật Tổ và Quan Thế Âm, vị Thánh của sự sống lương thiện và của lòng từ bi, rồi chúng tôi đi tiếp về phía ánh sáng lờ mờ bên trong ngôi chùa để tham gia buổi lễ. Sau đó chúng tôi không thể ăn gì được nữa, mà thay vào đó là cuộn tròn trong chăn ấm và ngủ thiếp đi.

So—we made our way up the street, along the road to Kialing, and when we were part way along that road we turned right into the path leading up to our temple. It was service time when we got back. The Tablets were hanging limply against their poles there was no breeze, and the clouds of incense were just hanging motionless too. The Tablets are of red material with gold Chinese ideographs upon them. They were the Tablets of the Ancestors and were used in much the same way as tombstones are used to commemorate the dead in Western countries. We bowed to Ho Tai and Kuan Yin, the god of good living and the Goddess of compassion, and went our way into the dimly lit interior of the temple for our service. After which we were unable to face our evening meal, but instead rolled ourselves into our blankets and drifted off to sleep.

Không bao giờ thiếu tử thi để giải phẫu. Ở Trùng Khánh vào thời gian đó tử thi luôn sẵn có. Sau này, khi chiến tranh bùng nổ, chúng tôi còn có nhiều xác chết hơn chúng tôi cần! Nhưng những tử thi ở đây được dùng để giải phẫu, chúng tôi bảo quản trong một căn phòng dưới lòng đất, được làm lạnh một cách cẩn thận. Ngay khi chúng tôi nhận được một xác người mới chết từ các đường phố, hoặc từ một bệnh viện, chúng tôi thường tiêm vào háng chất khử trùng mạnh nhất để bảo vệ xác chết trong vài tháng liền.

There was never any shortage of bodies for dissection. Bodies in Chungking at that time were a very easily obtained commodity. Later, when the war started, we were to have more corpses than we could deal with! But these, these which were obtained for dissection, we kept in an underground room which was carefully cooled. As soon as we could obtain a fresh body from the streets, or from a hospital, we used to inject into the groin a most powerful disinfectant that served to preserve the body for some months.

Việc đi xuống tầng hầm và ngắm nhìn các tử thi được đặt trên cáng khá thú vị và điều đáng chú ý là tất cả đều là những cơ thể rất gầy gò. Chúng tôi thường tranh giành xem ai nên có tử thi gầy nhất. Những tử thi béo rất phiền phức trong quá trình mổ xẻ, mất quá nhiều công sức nhưng kết quả thì ít ỏi. Bạn sẽ phải rạch liên tục để tách một dây thần kinh hoặc một động mạch khỏi hết lớp mỡ này đến lớp mỡ khác. Các tử thi không lúc nào thiếu. Chúng tôi thường xuyên có nhiều đến mức phải bảo quản chúng trong những bể đầy dung dịch, muối dưa chua, như chúng tôi thường gọi.

It was quite interesting to go down into the basement and see the bodies on slabs, and to notice how invariably they were thin bodies. We used to have quite heated disputes as to which of us should have the thinnest. The fat bodies were a great trouble in dissecting, there was so much labor with so little result. One could go on cutting and cutting, dissecting out a nerve or an artery and have to dissect away layer after layer of fatty tissues. Bodies were not in short supply at all. Frequently we had so many on hand that we kept them in tanks, in pickle, as we called it.

Tất nhiên không phải lúc nào cũng dễ dàng để mang lén một tử thi vào bệnh viện vì một số người thân có quan điểm rất cứng rắn việc này. Thời đó, những trẻ sơ sinh chết yểu bị bỏ rơi trên đường phố, hoặc những người lớn, mà gia đình họ quá nghèo để có thể làm một lễ tang hẳn hoi, đã phải để tử thi của họ lại trên phố trong đêm. Chúng tôi, những sinh viên y khoa, thường đi ra ngoài vào sáng sớm để nhặt những cái xác trông còn tốt nhất, và tất nhiên, gầy còm nhất! Mỗi người có thể lấy riêng một tử thi nhưng chúng tôi thường ghép thành đôi, một người nhấc đầu, người kia nhấc chân. Có đồng bọn vui hơn nhiều.

Of course it was not always easy to smuggle a body into the hospital because some of the relatives had strong opinions about such things. In those days young babies who had died were abandoned in the streets, or those adults whose families were too poor to pay for a satisfactory funeral left them out in the streets under cover of darkness. We medical students, then, frequently went out in the early morning to pick the best looking bodies, and, of course, the leanest! We could have had a whole body to ourselves often we worked two to a cadaver, one doing the head, the other doing the feet. That was more companionable.

Chúng tôi thường xuyên ăn trưa trong phòng giải phẫu mỗi khi cần ôn luyện, chuẩn bị cho bài kiểm tra. Chẳng có gì lạ khi nhìn thấy một sinh viên với đồ ăn trải trên bụng của một tử thi trong khi cuốn sách anh ta đang đọc được dựng dựa vào bắp đùi. Thời đó, chúng tôi chẳng mảy may nghĩ đến chuyện mình có thể bị khiếu nại về các bệnh lây nhiễm từ xác chết.

Hiệu trưởng của chúng tôi, Tiến sĩ Lee, có những tư tưởng Hoa Kỳ nhất; trên một số phương diện, ông ấy sao chép toàn bộ của người Mỹ, nhưng không thành vấn đề, ông ấy vẫn là một người tốt, một trong những người Trung Quốc tuyệt vời nhất mà tôi từng gặp, và thật may mắn khi được học tập cùng ông. Tôi đã học nhiều và trải qua nhiều bài thi; nhưng tôi vẫn cho rằng tôi học được nhiều hơn về giải phẫu từ những người Âm Công của Tây Tạng.

Quite frequently we had our lunch in the dissecting room if we were studying for some examination. It was no uncommon thing to see a student with his food spread out on the stomach of a cadaver while his text book, which he was reading, would be propped up against the thigh. It never occurred to us at that time that we could obtain all sorts of curious complaints through infection from dead bodies. Our Principal, Dr. Lee, had all the latest American ideas; in some ways he was almost a crank for copying the Americans, but no matter, he was a good man, one of the most brilliant Chinamen that I have met, and it was a pleasure to study with him. I learned a lot and passed many examinations; but I still maintain that I learned far more morbid anatomy from the Body Breakers of Tibet.

Trường đại học của chúng tôi và các bệnh viện trực thuộc nằm ở phía cuối đường cách xa các bến tàu đậu dọc theo phố. Khi thời tiết đẹp, chúng tôi có tầm nhìn khá tốt sang bên kia sông, ngang qua những thửa ruộng bậc thang, bởi vì trường ở trên một vị trí cao, một vị trí đắc địa, trên thực tế. Về phía bến cảng, tại khu vực buôn bán có một cửa hiệu cũ kỹ, tồi tàn trông như thể nó đang ở trong giai đoạn cuối của sự suy tàn.

Our college and the attached hospital were at the far end of the road away from the docks along from the street steps. In fine weather we had quite a good view across the river, across the terraced fields, because it was in a very prominent position, a prominent landmark, in fact. Toward the harbor in a more business section of the street was an old, old shop looking as if it were in the last stages of decay.

Gỗ đã bị mối mọt, và lớp sơn đang bong ra khỏi những tấm bảng. Cánh cửa xiêu vẹo và ọp ẹp. Trên đó là một con hổ gỗ được sơn màu lòe loẹt.  Con hổ được lắp để lưng nó uốn cong đúng theo cửa vào. Cái hàm mở ngoác với những chiếc răng nhìn dữ tợn cùng những chiếc móng vuốt trông cũng đủ làm cho người ta phải sợ chết khiếp. Con hổ này mang ý nghĩa của sự tráng dương, nó là một biểu tượng Trung Hoa cổ cho sức mạnh.

The woodwork appeared to be worm-eaten, and the paint was flaking from the boards. The door was ramshackle and rickety. Above it there was a cut-out wooden figure of a gaudily painted tiger. It was so arranged that it arched its back over the entrance. Yawning jowls with ferocious looking teeth and claws which were realistic enough to strike terror into anyone’s heart. This tiger was meant to show virility—it is an old Chinese emblem for virility.

Cửa hàng này là tia hy vọng cho những người đàn ông bất lực, và cho những người mong muốn có sức khỏe tốt để đeo đuổi những trò tiêu khiển của họ. Phụ nữ cũng vậy, họ tới đây để kiếm một vài thang thuốc, cao hổ, hoặc triết xuất từ rễ cây nhân sâm khi họ muốn có con những vì lý do nào đó không thế. Cao hổ hoặc triết xuất nhân sâm chứa hàm lượng lớn các chất có thể giúp ích cho đàn ông và đàn bà tại những thời điểm khó khăn như vậy, các chất mà khoa học phương Tây chỉ mới phát hiện ra gần đây, họ tung hô nó như một thành công vĩ đại trong thương mại và khoa học.

This shop was a beacon for rundown men, and for those who wished to have greater vigour with which to pursue their amusements. Women, too, went here to get certain compounds, extract of tiger, or extract of ginseng root, when they wanted to have children and for some reason apparently could not. Extract of tiger or extract of ginseng contained large quantities of substance which help men and women in such difficult times, substances which have only recently been discovered by Western science who hail it as a great triumph of commerce and research.

Người Trung Quốc và Tây Tạng không biết nhiều về các nghiên cứu hiện đại, nhưng họ đã có những thuốc này từ ba, bốn ngàn năm trước mà chẳng hề khoe khoang về nó. Có một sự thật là phương Tây có thể học hỏi rất nhiều từ phương Đông nếu phương Tây sẵn sàng cộng tác. Nhưng hãy trở lại với cửa hiệu cũ kỹ này với con hổ dữ tợn được khắc và sơn màu của nó, với cửa sổ đầy những thứ bột kỳ lạ, những xác ướp và những chai chứa những dung dịch sắc màu. Đây là cửa hiệu của một thầy lang cổ điển, nơi bạn có thể mua được bột cóc, sừng linh dương được tán thành bột có tác dụng như thuốc kích thích tình dục, và những thuốc pha chế kỳ lạ khác.

The Chinese and the Tibetans did not know so much about modern research, and so they have had those compounds for three or four thousand years and have not boasted unduly about it. It is a fact that the West could learn so much from the East if the West was more cooperative. But—to turn to this old shop with its fierce tiger carved and painted above it, with a window full of strange looking powders, mummies and bottles of coloured liquids. This was the shop of an old style medical practitioner where it was possible to obtain powdered toad, the horns of antelope ground to powder to act as an aphrodisiac, and other strange concoctions.

Trong những xóm nghèo như thế này, những người bệnh thường không đi khám theo phương thức hiện đại tại các bệnh viện. Thay vào đó họ đi đến những cửa hiệu cũ bẩn như thế này theo cách mà cha họ đã làm, và có lẽ ông họ cũng đã làm. Người bệnh sẽ kể về bệnh của mình cho một thầy lang, người đó ngồi sau một quần gỗ màu nâu như một con cú với cặp kính dày cộm.

Not often in these poorer quarters did the patient go to the modern surgery of the hospital for treatment. Instead he went to this dirty old shop in much the same way as his father had done, and perhaps as his father’s father before had done also. He took his complaints to the physician in charge, who sat looking like an owl with powerful lensed spectacles behind a brown wooden barrier.

Người bệnh kể về tình trạng và những triệu chứng của mình, trong khi ông thầy thuốc già gật gù, vừa bấm ngón tay vừa chạm chạp kê những thứ thuốc cần thiết. Có một nguyên tắc đó là thuốc phải được gắn màu theo một quy tắc đặc biệt. Đó là một điều luật bất thành văn từ xa xưa. Bệnh đau dạ dày thuốc sẽ có màu vàng, trong khi những người bị bệnh về máu hoặc bệnh tim sẽ có thuốc màu đỏ. Những người bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi bệnh gan mật hoặc chỉ cần có tâm trạng không tốt sẽ có thuốc màu xanh lục. Bệnh nhân có vấn đề về mắt sẽ có thuốc màu xanh dương.

Bên trong cơ thể con người có vấn đề gì thì sẽ tương ứng với màu sắc được sử dụng. Nếu một người bị đau bên trong và được cho là mắc bệnh đường ruột thì thuốc sẽ có màu nâu. Phụ nữ mang thai lại được chỉ dẫn uống thịt rùa đã tán thành bột và em bé sẽ được sinh ra một cách dễ dàng, không đau đớn, trước cả khi người mẹ nhận biết được điều đó, vì vậy công việc hàng ngày của cô ấy sẽ không bị trở ngại vì việc sinh nở. Hướng dẫn được đưa ra là:

– Về nhà, buộc một cái tạp dề xung quanh người, giữa hai chân, để nhỡ em bé có rơi ra thì cũng không va xuống sàn, và sau đó uống chỗ bột thịt rùa này!

He would discuss his case and the symptoms, and the old physician would solemnly nod his head and with finger tips touching he would ponderously prescribe the necessary medicine. One convention was that the medicine had to be coloured according to a special code. That was an unwritten law from time before history. For a stomach complaint the medicine provided would be yellow, while the patient suffering from a blood or a heart disease would have red medicine. Those afflicted with bile or liver complaints or even with excessively bad temper would have a green medicine. Patients who were suffering from eye troubles would have blue lotion. The interior of a person presented great problems regarding which colour to use. If a person had a pain inside and it was thought to be of intestinal origin the medicine would be brown. An expectant mother had only—so she was told—to take the pulverized flesh of a turtle and the baby would be born painlessly, easily, almost before she was aware of it, and so her day’s work would not be interfered with. One injunction was ‘Go home, put an apron around you, between your legs, so that the baby shall not drop and strike the ground, and then swallow this pulverized flesh of a turtle!’

Ông thầy lang người Tàu già cả không đăng ký hành nghề nhưng vẫn quảng cáo một cách rất hoành tráng. Thường thì ông ta sẽ có một biển hiệu thật lớn, một biển hiệu sơn màu lòe loẹt trước cửa nhà để chỉ ra rằng ông là một người chữa bệnh tuyệt vời. Không chỉ có thế, trong phòng chờ và phẫu thuật, người ta sẽ tìm thấy những chiếc huy chương lớn, những tấm mộc mà những người bệnh giàu có và sợ chết đã tặng cho thầy thuốc để chứng nhận rằng cách chữa bệnh kỳ diệu với những thứ thuốc màu, bột và dung dịch đã chữa khỏi cho họ những căn bệnh kỳ lạ, không rõ nguồn gốc.

The old, unregistered Chinese doctor could advertise, an this he did in a most spectacular manner. Usually he had a large sign, an immense painted sign above his house, to show what a wonderful healer he was. Not only that, but in his waiting room and surgery would be found great medals and shields which wealthy and frightened patients had given him to testify to the miraculous way in which he, with coloured medicines, powders and potions, had cured them of unknown and unspecified diseases.

Những nha sĩ đáng thương không may mắn như vậy, họ là những nha sĩ theo kiểu cổ. Thường thì, họ không có nhà riêng để tiếp bệnh nhân, mà phải tiếp họ ở trên phố.

Nạn nhân ngồi lên trên một cái hộp và nha sĩ tiến hành kiểm tra, soi soi, chọc chọc trước sự chứng kiến của rất nhiều khán giả ngưỡng mộ. Sau đó, với vài tiểu xảo kỳ lạ và khéo léo, ông ta tiến hành nhổ chiếc răng bị đau. “Tiến hành” là thuật ngữ phù hợp bởi vì nếu bệnh nhân hoảng sợ hoặc kêu la ầm ĩ thì việc nhổ răng sẽ không dễ dàng và lúc đó vị nha sĩ sẽ không ngần ngại nhờ những người đứng xem xung quanh cưỡng chế nạn nhân đang vật lộn chống cự. Không có chuyện dùng thuốc tê.

Các nha sĩ không quảng cáo như các thầy lang, với những biển hiệu, những tấm mộc và những huy chương, mà thay vào đó ông ta đeo quanh cổ một chuỗi những chiếc răng mà ông ta đã từng nhổ. Cứ khi nào nhổ răng, ông ta sẽ giữ lại chiếc răng và cẩn thận làm sạch nó, rồi khoan một lỗ xuyên qua nó. Sau đó nó sẽ được xâu vào chuỗi để tạo thêm một bằng chứng cho kỹ năng của người nha sĩ nổi tiếng.

The poor dentist was not so lucky, the older style dentist, that is. Most of the time he had no particular house in which to see patients, but he saw them in the street. The victim sat down on a box and the dentist carried out his examination, his poking and probing, in full view of an appreciative audience. Then, with a lot of strange manoeuvres and gesticulations, he would proceed to extract the faulty tooth. ‘Proceed’ is the right term because if the patient was frightened or excessively noisy it was not always easy to do an extraction and at times the dentist would not hesitate to call upon bystanders to hold the struggling victim. There was no anaesthetic used. The dentist did not advertise as the doctors did with signs and shields and medals, but instead around his neck he wore strings of teeth which he had extracted. Whenever he had extracted a tooth, that tooth would be picked up, carefully cleaned, and a hole drilled through it. It would then be threaded on to a string to add one more testimony to the skill of the dentist who had pulled so many.

Chúng tôi đã từng rất khó chịu khi những thấy người bệnh mà mình đã dành nhiều thời gian chăm sóc, cung cấp những phép điều trị mới nhất, kê đơn những thứ thuốc đắt tiền nhất, bí mật lẻn đến khám tại nhà các thầy lang cổ này. Chúng tôi khẳng định rằng chính chúng tôi mới là người đã chữa khỏi cho bệnh nhân. Các thầy lang thì lại đinh ninh rằng ông ta mới là người chữa khỏi. Nhưng người bệnh thì không nói gì hết, anh ta chỉ cần khỏi bệnh là đã vui sướng lắm rồi.

It used to annoy us considerably when patients on whom we had lavished much time and care, and to whom we had given the very latest treatment and prescribed expensive drugs, crept surreptitiously into the back entrance of the old Chinese doctor’s premises for treatment by him. We claimed that we cured the patient. The quack claimed that he cured. But the patient said nothing, he was too glad to be free of his ill.

Khi chúng tôi đã tiến bộ hơn trong việc học và đã thuộc làu các ngóc ngách của bệnh viện, chúng tôi thường xuyên có dịp được đi với một bác sĩ thâm niên để điều trị cho bệnh nhân tại nhà riêng của họ, và hỗ trợ những ca phẫu thuật. Đôi khi chúng tôi phải xuống núi tới những nơi rất khó tiếp cận, tới chữa cho một những người khốn khổ nào đó đã không may bị ngã và gãy xương hoặc thân thể bị thương nặng đến mức gần như vô vọng. Chúng tôi đến thăm những người sống trong những ngôi nhà nổi trên sông. Trên sông Gia Linh, có những người sống trên những chiếc ghe, hoặc thậm chí trên những chiếc bè làm bằng tre được phủ bằng chiếu, dựng thành những túp lều nhỏ.

Những chiếc bè lắc lư và bập bềnh trên sông, và nếu không cẩn thận, đặc biệt là vào ban đêm, rất dễ bị sẩy chân hoặc phải trụ trên một phần lỏng lẻo của thân tre sắp sửa chìm xuống nước. Những lúc như vậy, bạn chẳng thể tránh khỏi những tràng cười của đám con nít luôn bu xung quanh trong những tình huống bất hạnh như vậy. Những người nông dân Trung Quốc già nua này có khả năng chịu đựng thật đáng kinh ngạc. Họ không bao giờ phàn nàn và luôn biết ơn những gì mà chúng tôi có thể làm cho họ.

Chúng tôi thường làm mọi thứ để giúp đỡ những người già này, giúp họ dọn dẹp túp lều trật trội của họ, hoặc chuẩn bị thức ăn cho họ, nhưng đối với thế hệ trẻ thì không dễ chịu như vậy. Họ đang dần trở nên ngang ngạnh, họ đang tiếp nhận những tư tưởng kỳ lạ. Những người đến từ Mát-scơ-va đang quấn lấy họ, chuẩn bị họ cho chế độ Cộng sản. Chúng tôi biết điều đó, nhưng chẳng thể làm gì ngoài việc đứng nhìn một cách bất lực.

As we became more and more advanced in our studies and walked the wards of the hospital, we had on frequent occasions to go out with a full qualified doctor to treat people in their own homes, to assist at operations. Sometimes we had to descend the cliffs to inaccessible places, perhaps to some place where some poor unfortunate had fallen over and shattered bones or lacerated flesh almost beyond repair. We had visits to those who had floating homes upon the rivers. In the Kialing river there are people who live on house-boats, or even rafts of bamboo covered with matting on which they erect little huts. These swayed and bobbed at the bank of the river, and, unless we were careful, particularly at night, it was remarkably easy to miss one’s footing or to stand firmly upon a loose piece of bamboo which merely sank beneath one. Then one was not at all cheered by the laughter of the inevitable crowd of small boys who always gathered on such unfortunate occasions. The old Chinese peasants were able to put up with an amazing amount of pain. They never complained and they were always grateful for what we could do for them. We used to go out of our way to help the old people, perhaps help to clean up their little hut, or prepare food for them, but with the younger generation things were not so pleasant. They were getting restive, they were getting strange ideas. The men from Moscow were circulating among them, preparing them for the advent of Communism. We knew it, but there was nothing we could do except to stand by and watch helplessly.

Nhưng trước khi chúng tôi trở thành những bác sĩ chuyên nghiệp, chúng tôi phải nghiên cứu một khối lượng lớn những môn học, nhiều lúc phải học đến mười bốn giờ một ngày. Từ học cũng như Điện học là hai ví dụ. Tôi nhớ rất rõ buổi học đầu tiên của tôi về Từ học. Hồi đó, nó là một môn học hoàn toàn xa lạ đối với tôi.  Nó cũng thú vị đối với tôi như môn Điện vậy. Giảng viên không phải là một người thân thiện, dù sao thì đây là những gì đã xảy ra.

But before we became so qualified we had an enormous amount of study to do, study a whole diversity of subjects for as long as fourteen hours a day. Magnetism as well as Electricity, to quote just two. I well remember the first lecture I attended on Magnetism. Then it was a subject almost entirely unknown to me. It was perhaps as interesting in its way as that which I attended on Electricity. The lecturer was not really a very pleasant individual, but here is what happened.

Huang chen qua đám đông đọc thông báo trên bảng để xem chúng tôi sẽ phải đến học lớp nào tiếp theo. Cậu bắt đầu đọc, sau đó gọi với sang tôi:

– Này, Lobsang, chúng ta có lớp về Từ học chiều nay đấy.

Chúng tôi vui mừng khi được học cùng một lớp vì giữa chúng tôi đã hình thành một tình bạn rất chân thành. Chúng tôi bước vào nhà tứ giác, tới phòng học bên cạnh lớp học Điện. Chúng tôi bước vào.

Bên trong có nhiều thiết bị, với chúng tôi chúng cũng giống như các thiết bị điện vậy. Những cuộn dây, những mành kim loại kỳ lạ uốn cong hình móng ngựa. Những thanh màu đen, những thanh bằng thủy tinh, và những hộp kính khác nhau có chứa những thứ trông giống như nước, cùng một ít gỗ và chì. Chúng tôi ngồi vào chỗ của mình và giảng viên chậm chạp bước đến bên bàn của ông ta. Đó là một người đàn ông nặng nề, nặng nề cả về cơ thể lẫn trí tuệ.

Chắc chắn ông ta rất tự tin về khả năng của mình và tự đánh giá cao khả năng của mình hơn cả gì đồng nghiệp của ông ta nhận thấy! Ông này cũng đã từng sang Mỹ, và trong khi những người khác trở về với sự khiêm tốn rằng những gì họ thực sự biết rất ỏi thì người này hoàn toàn bị thuyết phục rằng ông ta đã biết mọi điều, rằng trí não của ông ta không thể sai lầm được. Người giảng viên đến chỗ của mình và vì lý do nào đó ông ta nhặt một chiếc búa gỗ và gõ dữ dội lên bàn.

Huang had pushed his way through the crowd to read notices on the board to see where we should go for the next class. He started reading, then, ‘Hoy, Lobsang,’ he called across to me, ‘we’ve got a lecture on Magnetism this afternoon.’ We were glad to see that we were in the same class because we had formed a very sincere friendship. We walked out into the quadrangle, across and into a classroom next door to that devoted to Electricity. We entered. Inside there was a lot of equipment much the same, it seemed to us, as that dealing with Electricity proper. Coils of wire, strange pieces of metal bent roughly to a horse shoe shape. Black rods, glass rods, and various glass boxes containing what looked like water, and bits of wood and lead. We took our places and the lecturer came in and stalked ponderously to his table. He was a heavy man, heavy in body, heavy in mind.

Certainly he had a very good opinion of his own abilities, a far greater opinion of his abilities than his colleagues had of them! He too had been to America, and whereas some of the others of the tutorial staff had returned knowing how little they really knew, this one was utterly convinced that he knew everything, that his own brain was infallible. He took his place and for some reason picked up a wooden hammer and rapped violently on his desk.

– Trật tự!

Ông ta gầm lên, mặc dù lúc đó không hề có một âm thanh nào.

– Chúng ta sẽ học về Từ học, bài giảng đầu tiên đối với một số em về môn học hấp dẫn này.

Ông ta nói, và nhặt lên một thanh cong hình móng ngựa.

– Thứ này có một từ trường xung quanh nó.

Tôi lập tức nghĩ ngay đến những con ngựa được chăn thả. Ông nói:

– Tôi sẽ chỉ cho các em hình dáng bên ngoài của từ trường với sự trợ giúp của bụi sắt. Từ tính, ông nói tiếp, sẽ kích hoạt mỗi một hạt nguyên tử của bụi sắt này và nó sẽ vẽ ra hình dạng chính xác của lực đã tác động đến nó.

Tôi buột miệng nhận xét với Huang, người đang ngồi phía sau tôi:

– Một kẻ ngốc cũng có thể nhìn thấy nó ngay lập tức, tại sao lại phải làm việc này?

Ông thầy giáo nhảy dựng lên giận dữ.

“Silence!” he roared, although there had not been a sound. “We are going to do Magnetism, the first lecture for some of you on this absorbing subject,” he said. He picked up one of the bars bent in the shape of a horse-shoe. “This,” he said, “has a field around it.” I immediately thought of grazing horses. He said, “I am going to show you how to outline the field of the magnet with iron dust. Magnetism,” he went on, “will activate each particle of this iron which will then draw for itself the exact outline of the force which motivates it.” I incautiously remarked to Huang who was sitting behind me, “But any fool can see it now, why tamper with it?” the lecturer jumped up in a furious temper.

– Ồ, ông nói, ngài Lạt ma đáng kính đến từ Tây Tạng – người chẳng biết gì về Từ tính hay Điện –  mà lại có thể nhìn thấy từ trường sao?

Ông ta chỉ ngón tay một cách dữ dằn vào tôi.

– Vậy thì, ngài Lạt ma vĩ đại, anh tự nhận là có thể nhìn thấy từ trường tuyệt vời này phải không? Người duy nhất ở đây có thể thấy.

Ông ta nói vẻ nhạo báng. Tôi đứng lên:

– Vâng, thưa thầy, tôi có thể nhìn thấy nó rất rõ ràng.

Tôi nói:

– Tôi cũng có thể nhìn thấy những ánh sáng xung quanh các sợi dây dẫn này.

Ông ta nhặt lấy cái búa gỗ, đập liên tục xuống bàn.

– Anh nói dối, ông ta nói, không ai có thể nhìn thấy nó cả. Nếu anh giỏi giang như vậy thì hãy đến đây và vẽ nó và sau đó chúng ta sẽ xem thứ hổ lốn mà anh đã vẽ ra.

“Oh,” he said “the great lama from Tibet—who doesn’t know the first thing about Magnetism or Electricity—can see a magnetic field, can he?” He stabbed a finger violently in my direction. “So, great lama, you can see this wonderful field can you? The only man in existence who can perhaps,” he said sneeringly. I stood up. “Yes, Honourable Lecturer I can see it very clearly,” I said. “I can also see the lights around those wires.” He took his wooden hammer again, brought it down with a succession of resounding crashes on his desk. “You lie” he said “no one can see it. If you are so clever come and draw it for me and then we will see what sort of a mess you make of it.”

Tôi thở dài mệt mỏi đi tới chỗ ông ta, nhặt thanh nam châm cùng với một mẩu phấn và đi về phía bảng đen.

Tôi áp thanh nam châm lên bảng sau đó vẽ xung quanh nó hình dạng chính xác của ánh sáng xanh đi ra từ thanh nam châm mà tôi có thể nhìn thấy rõ. Tôi cũng vẽ những vằn sáng nhạt hơn bên trong từ trường của nó. Đây là điều hết sức đơn giản đối với tôi, tôi đã có khả năng này ngay từ khi được sinh ra, và khả năng này được tăng cường bằng các cuộc phẫu thuật. Một sự im lặng tuyệt đối khi tôi hoàn thành, và quay lại. Ông thầy đang nhìn tôi tròn xoe mắt.

– Anh đã học môn này trước đây, đó là trò lừa bịp!

I sighed wearily as I went up to him, picked up the magnet and went to the blackboard with a piece of chalk. The magnet I put flat on the board then I drew around it the exact shape of the blue-ish light which I could see coming from the magnet. I drew, also, those lighter striations which were within the field itself. It was such a simple matter for me, I had been born with the ability, and I had had the ability increased in me by operations. There was absolutely dead silence when I had finished, and I turned round. The lecturer was watching me and his eyes were quite literally bulging. “You’ve studied this before,” he said, “it’s a trick!”

– Thưa thầy, tôi trả lời, cho tới ngày hôm nay, tôi chưa từng nhìn thấy thanh nam châm nào như thế này.

Ông nói:

– Được rồi, tôi không biết anh làm điều đó thế nào, nhưng đó chính xác là từ trường của nam châm. Tôi vẫn cho rằng đó là một trò lừa bịp. Tôi vẫn cho rằng ở Tây Tạng các người chỉ học những mánh khóe. Tôi không thể hiểu nổi.

Ông ta giật thanh nam châm từ tay tôi, gói nó bằng một tờ báo mỏng, và rắc bụi sắt lên trên tờ báo, dùng ngón tay vỗ nhẹ lên trên tờ báo và bụi sắt dàn ra thành hình dạng chính xác như hình mà tôi đã vẽ trên bảng. Ông ta nhìn nó, rồi nhìn hình vẽ của tôi, nhìn đi nhìn lại hình dáng mà bụi sắt tạo thành.

– Tôi vẫn không tin anh, anh bạn Tây Tạng, ông nói. Tôi vẫn nghĩ đây chỉ là trò lừa bịp.

Ông ta ngồi xuống mệt mỏi và chống tay lên đầu, đột nhiên ông ta nhảy chồm lên một cách dữ dằn và một lần nữa lại chỉ thẳng vào mặt tôi.

– Anh! ông ta nói, anh nói rằng anh có thể nhìn thấy từ trường của thanh nam châm đó. Anh cũng nói rằng, ‘có thể nhìn thấy ánh sáng xung quanh những sợi dây đó’.

“Honourable Lecturer,” I replied, “until this day I have never seen one of these magnets.” He said, “Well, I do not know how you do it, but that is the correct field. I still maintain that it is a trick. I still maintain that in Tibet you learned only trickery. I do not understand it.” He took the magnet from me, covered it with a sheet of thin paper, and on to the paper he sprinkled fine iron dust, with a finger he tapped on the paper and the dust took up the exact shape of that which I had drawn on the blackboard. He looked at it, he looked at my drawing, and he looked back at the outline in the iron filings. “I still do not believe you, man from Tibet,” he said. “I still think that it is a trick.” He sat down wearily and propped his head in his hands, then with explosive violence, he jumped up and shot out his hand to me again. “You!” he said, “you said that you could see the field of that magnet. You also said, ‘And I can see the light around those wires’.”

– Đúng vậy, tôi có thể, tôi trả lời. Tôi có thể nhìn thấy chúng một cách dễ dàng.

– Được!

Ông ta hét vào mặt tôi :

– Bây giờ tôi sẽ chứng minh anh sai và anh là một kẻ lừa gạt.

Ông ta quay đi, đá văng chiếc ghế trong cơn giận dữ. Ông ta vội vã đi đến góc phòng, càu nhàu cúi xuống nhặt lên một chiếc hộp, với những sợi dây được cuộn lại thò ra từ đỉnh hộp. Ông ta đứng lên và đặt nó lên trên bàn trước mặt tôi. Ông nói :

– Đây là một cái hộp thú vị được gọi là hộp tần số cao. Nếu anh vẽ được từ trường của nó thì tôi sẽ tin anh; giờ thì của anh hết đấy, vẽ từ trường đi.

Ông ta nhìn tôi như muốn nói :

– Tôi thách anh đấy.

Tôi nói:

– Được rồi. Đơn giản thôi. Chúng ta cần đặt nó gần bảng hơn, nếu không tôi sẽ chỉ vẽ được bằng trí nhớ.

Ông ta nâng một đầu bàn và tôi nâng đầu bên kia rồi cùng chuyển nó đến gần bảng đen. Tôi nhặt viên phấn lên, và quay lưng lại chiếc bảng.

“That is so,” I replied “I can. I can see them easily.” “Right!” he shouted at me, “now we can prove you wrong, prove you are a fake.” He wheeled round, knocking over his chair in his temper. He hurried to a corner, bent down with a grunt picked up a box, with wires protruding in a coil from the top. He stood up and placed it on the table in front of me. “Now,” he said, “now, here is a very interesting box known as a high-frequency box. You draw the field of that for me and I will believe in you; there you are, you draw that field.” He looked at me as if to say “I’ll dare you to.” I said, “All right. It’s simple enough. Let us put it nearer the blackboard, otherwise I shall be doing it by memory.” He picked up one end of the table and I picked up the other and we moved it right up close to the blackboard. I took the chalk in my hand, and turned away to the board.

– Ồ, tôi nói, nó biến mất rồi.

Tôi nhìn với vẻ ngạc nhiên bởi vì chỉ còn có những sợi dây trơ trọi, không có gì khác nữa, không có từ trường. Tôi quay về phía ông ta, tay ông đang đặt lên công tắc. Ông ấy đã tắt dòng điện, nhưng trên khuôn mặt ông thể hiện vẻ kinh ngạc hết sức.

– Đúng vậy! ông nói, anh thực sự có thể nhìn thấy điều đó à! Tốt, tốt lắm, ấn tượng đấy.

Ông lại bật công tắc và nói:

– Hãy quay lưng lại phía tôi và nói cho tôi biết khi nào nó bật và khi nào nó tắt.

Tôi quay đi và tôi nói với ông ấy:

– Tắt, bật, tắt.

Sau đó ông để nó tắt hẳn và ngồi xuống ghế của mình với vẻ của người mà hệ niềm tin của ông ta vừa bị một đòn chí mạng. Sau đó, bất ngờ, ông nói:

– Cả lớp giải tán.

Quay sang tôi, ông nói:

– Anh thì không. Tôi muốn nói chuyện riêng với anh.

“Oh,” I said, “it’s all gone.” I looked in amazement because there were just wires, nothing else, no field. I turned towards him, his hand was on a switch. He had switched off the current, but there was a look of absolute stupefaction on his face. “So!” he said, “you really can see that! Well, well, how remarkable.” He switched on again and said, “Turn away from me and tell me when it is on and when it is off.” I turned away from him and I was able to tell him, “Off, on, off.” He left it off then and sat in his chair in the attitude of a man whose faith has received a crushing blow. Then, abruptly, he said, “Class dismissed.” Turning to me, “Not you. I want to speak to you alone.”

Những sinh viên khác càu nhàu với vẻ phật ý. Họ đến lớp để nghe giảng và họ đang cảm thấy hứng thú, tại sao họ lại phải ra ngoài lúc này? Ông thầy xua họ ra, đẩy vai của một, hai người để thúc họ đi ra nhanh hơn. Lời của thầy là luật.

Khi lớp học không còn ai, ông ta nói:

– Bây giờ, hãy nói cho tôi nghe về chuyện này. Đó là mánh khóe gì vậy?

Tôi nói:

– Nó không phải là trò lừa. Nó là khả năng bẩm sinh của tôi và nó được tăng cường nhờ một cuộc giải phẫu đặc biệt. Tôi có thể nhìn thấy hào quang. Tôi có thể có thể nhìn thấy hào quang của thày. Qua đó tôi biết rằng thầy không muốn tin, thầy không muốn tin rằng một ai đó có khả năng mà thầy không có. Thầy muốn chứng minh rằng tôi sai.

– Không, ông nói, tôi không muốn chứng minh anh sai. Tôi chỉ muốn chứng minh rằng những gì tôi đã được đào tạo và những kiến thức của tôi là đúng, và nếu anh có thể nhìn thấy hào quang thì chắc chắn những gì tôi đã được dạy là sai.

– Không đâu, tôi đáp. Tôi cho rằng tất cả những kiến thức mà thầy được dạy cũng đi đến việc chứng minh về sự tồn tại của hào quang, bởi vì từ những hiểu biết ít ỏi về điện mà tôi mới học được ở trường đại học này, tôi cho rằng con người cũng được cung cấp năng lượng bằng điện.

– Vô lý! ông nói. Thật là ngớ ngẩn làm sao.

Và ông ta lại nhảy dựng lên.

– Hãy đi với tôi đến gặp Hiệu trưởng. Việc này sẽ được giải quyết!

The others muttered with resentment. They had come for a lecture and they had found some interest, why should they be turned out now? He just shooed them out, taking one or two by the shoulders to hustle them more quickly. The lecturer’s word was law. With the classroom emptied he said; “Now, tell me more of this. What sort of trick is it?” I said, “It is not a trick. It is a faculty with which I was born and which was strengthened by a special operation. I can see auras. I can see your aura. From it I know that you do not want to believe, you do not want to believe that anyone has an ability which you have not. You want to prove me wrong.” “No,” he said, “I do not want to prove you wrong. I want to prove that my own training, my own knowledge is right, and if you can see this aura then surely all that I have been taught is wrong.” “Not at all,” I replied. “I say that all your training goes to prove the existence of an aura, because from the very little that I have already studied of Electricity in this college, it indicates to me that the human being is powered by electricity.” “What utter nonsense!” he said. “What absolute heresy.” And he jumped to his feet. “Come with me to the Principal. We will get this thing settled!”

Tiến sĩ Lee đang ngồi bên bàn làm việc, bận rộn với đống giấy tờ của trường đại học. Ông ngước lên một cách hòa nhã khi chúng tôi bước vào, liếc nhìn qua phía trên gọng kính. Sau đó ông tháo kính ra để nhìn chúng tôi được rõ hơn.

– Thưa Thầy Hiệu trưởng, người giảng viên nói oang oang, anh chàng này, anh bạn đến từ Tây Tạng nói rằng anh ta có thể nhìn thấy hào quang và tất cả chúng ta đều có hào quang. Anh ta đang cố gắng nói với tôi rằng anh ta biết nhiều hơn tôi, một giáo sư về Điện học và Từ học.

Tiến sĩ Lee nhẹ nhàng mời chúng tôi ngồi, và sau đó ông nói:

– Chính xác thì vấn đề ở đây là gì? Lobsang Rampa có thể nhìn thấy hào quang. Điều đó tôi biết. Thầy muốn phàn nàn về điều gì?

Người giảng viên há hốc mồm kinh ngạc.

– Nhưng thưa Thầy Hiệu trưởng, ông ta kêu lên, THẦY cũng tin vào những điều vô lý, kỳ dị, những trò lừa đảo như vậy ư?

– Tôi hoàn toàn tin, Tiến sĩ Lee nói, vì cậu ấy đến từ tầng lớp cao cấp nhất ở Tây Tạng, và tôi đã được nghe về cậu ấy từ người cao nhất.

Po Chu trông hết sức sửng sốt. Tiến sĩ Lee quay lại nói với tôi:

Dr. Lee was sitting at his desk, busily engaged with the papers of the college. He looked up mildly as we entered, peering over the top of his glasses. Then he removed them to see us the more clearly. “Reverend Principal,” bawled the lecturer, “this man, this fellow from Tibet says that he can see the aura and that we all have auras. He is trying to tell me that he knows more than I do, the Professor of Electricity and Magnetism”. Dr. Lee mildly motioned for us to be seated, and then said, “Well, what is it precisely? Lobsang Rampa can see auras. That I know. Of what do you complain?” The lecturer absolutely gaped in astonishment. “But, Reverend Principal,” he exclaimed, “do YOU believe in such nonsense, such heresy, such trickery?” “Most assuredly I do,” said Dr. Lee, “for he comes of the highest in Tibet, and I have heard of him from the highest.” Po Chu looked really crestfallen.

– Lobsang Rampa, tôi muốn yêu cầu anh nói cho chúng tôi biết theo chính lời của anh về hào quang. Hãy nói cho chúng tôi như thể là chúng tôi không biết chút gì về đề tài này. Hãy nói sao cho chúng tôi có thể hiểu và có lẽ sẽ được lợi từ kinh nghiệm chuyên môn của anh.

Ồ, đó là một đề tài hoàn toàn khác. Tôi thích Tiến sĩ Lee, tôi thích cách ông ấy xử lý mọi việc.

– Thưa Tiến sĩ Lee, tôi nói, khi tôi sinh ra tôi đã có khả năng nhìn mọi người đúng với con người thực của họ. Họ có xung quanh mình hào quang, thứ tiết lộ mọi biến động của tư tưởng, mọi thay đổi trong sức khỏe, trong tinh thần hoặc trong trình độ tâm linh. Hào quang này là ánh sáng tỏa ra từ linh hồn ở bên trong. Trong vài năm đầu tiên của cuộc đời, tôi cứ nghĩ là mọi người đều có thể nhìn thấy giống như tôi, nhưng tôi sớm nhận ra rằng không phải vậy. Sau đó, như các ngài đã biết, tôi vào một tu viện lạt ma khi tôi lên bảy tuổi và đã trải qua sự huấn luyện đặc biệt.

Trong tu viện lạt ma tôi đã trải qua một lần phẫu thuật đặc biệt để giúp cho tôi nhìn thấy thậm chí còn rõ ràng hơn trước đó, ngoài ra nó cũng làm cho tôi có thêm quyền năng. Vào thời xa xưa, tôi tiếp tục, con người có Con mắt Thứ ba. Vì sự ngu ngốc của mình mà con người đã đánh mất quyền năng sử dụng thị lực này và đó là mục đích của việc huấn luyện của tôi tại lạt ma viện ở Lhasa.

Tôi nhìn họ và thấy rằng họ đang đón nhận câu chuyện của tôi.

– Thưa Tiến sĩ Lee, tôi tiếp tục, cơ thể con người được bao quanh đầu tiên bởi ánh sáng xanh, ánh sáng này có thể dày khoảng một, hai inch[1]. Đi theo và bao phủ toàn bộ cơ thể vật lý, chúng tôi gọi nó là thể dĩ thái và nó là thể thấp nhất trong các cơ thể. Nó là cầu nối giữa trung giới và thế giới vật chất. Cường độ của màu xanh khác nhau tùy theo sức khỏe của mỗi người. Vượt ngoài thể vật lý và cả thể dĩ thái là hào quang. Hào quang thay đổi về kích thước, tùy thuộc vào tình độ tiến hoá của người đó, cũng phụ thuộc vào trình độ văn hóa, và tư tưởng của người đó. Hào quang của thầy có độ rộng bằng một người đứng cách thầy, đó là hào quang của một người tiến hóa cao, tôi nói với Hiệu trưởng.

Dr. Lee turned to me and said, “Lobsang Rampa, I will ask you to tell us in your own words about this aura. Tell us as if we knew nothing whatever about the subject. Tell us so that we may understand and perhaps profit from your specialized experience.” Well, that was quite a different matter. I liked Dr. Lee, I liked the way he handled things. “Dr. Lee,” I said, “when I was born it was with the ability to see people as they really were. They have around them an aura which betrays every fluctuation of thought, every variation in health, in mental or in spiritual conditions. This aura is the light caused by the spirit within. For the first couple of years of my life I thought everyone saw as I did, but I soon learned that that was not so. Then, as you are aware, I entered a lamasery at the age of seven and underwent special training. In that lamasery I was given a special operation to make me see with even greater clarity than that which I had seen before, but which also gave me additional powers. In the days before history was,” I went on, “man had a Third Eye. Through his own folly man lost the power to use that sight and that was the purpose of my training at the lamasery in Lhasa.” I looked at them and saw that they were taking it in very well. “Dr. Lee,” I went on, “the human body is surrounded first of all by a bluish light, a light perhaps an inch, perhaps two inches thick. That follows and covers the whole of the physical body. It is what we call the etheric body and is the lowest of the bodies. It is the connection between the astral world and the physical. The intensity of the blue varies according to a person’s health. Then beyond the body, beyond the etheric body too, there is the aura. It varies in size enormously depending on the state of evolution of the person concerned, depending also upon the standard of education of the person, and upon his thoughts. Your own aura is the length of a man away from you,” I said to the Principal, “the aura of an evolved man.

– Hào quang của con người, bất kể kích thước nào, đều bao gồm những dải màu sắc, giống như những dải mây màu sắc trôi trên bầu trời đêm. Chúng cũng thay đổi theo tư tưởng của con người. Có những vùng trên cơ thể, những vùng đặc biệt, tạo ra những dải màu sắc nằm ngang của riêng chúng. Hôm qua, khi đang học trong thư viện, tôi nhìn thấy một số bức tranh trong một cuốn sách nào đó viết về đức tin tôn giáo của phương Tây. Trong đó có những bức chân dung với hào quang xung quanh đầu. Điều này có nghĩa là người phương Tây, những người mà tôi vẫn nghĩ là kém phát triển hơn chúng ta, có thể thấy được hào quang, trong khi người phương Đông chúng ta lại không thể sao? Những hình ảnh của người phương Tây, tôi tiếp tục, chỉ có hào quang xung quanh đầu, nhưng tôi nhìn thấy hào quang không chỉ xung quanh đầu, mà còn xung quanh toàn bộ cơ thể và quanh các bàn tay, các ngón tay và chân nữa. Đó là những điều mà tôi đã luôn luôn nhìn thấy.

Thầy Hiệu trưởng quay sang Po Chu.

– Thầy thấy đấy, đây là thông tin mà tôi đã nhận được trước đây. Tôi biết Rampa có năng lực này. Cậu ấy đã sử dụng năng lực này thay mặt cho những người lãnh đạo Tây Tạng. Đó là lý do khiến cậu ấy đến học tập cùng chúng ta, điều được kỳ vọng là cậu ấy có thể hỗ trợ trong việc phát triển một thiết bị đặc biệt đem đến lợi ích lớn nhất cho nhân loại trong lĩnh vực phát hiện và chữa bệnh.

Ông hỏi:

– Vậy điều gì đã khiến thầy tới đây hôm nay?

Người giảng viên tỏ vẻ nghĩ ngợi. Ông trả lời:

– Chúng tôi chỉ mới bắt đầu bài thực hành về từ tính, và trước khi tôi có thể trình bày, ngay khi tôi vừa nói về từ trường, anh sinh viên này nói rằng anh ta có thể nhìn thấy các trường xung quanh thanh nam châm, đó là điều mà tôi cho là hoàn toàn tưởng tưởng. Vì thế tôi mời anh ta chứng minh trên bảng đen.

Ông tiếp tục:

– Tôi rất ngạc nhiên, anh ta có thể vẽ từ trường trên bảng đen, và anh ta cũng có thể vẽ điện trường của của một máy biến áp tần số cao, nhưng khi nó bị tắt thì anh ta không thấy gì nữa. Tôi chắc chắn đó là một thủ thuật. Ông ta bướng bình nhìn Hiệu trưởng.

– Không, Tiến sĩ Lee nói, đó thực sự không phải là chuyện lừa gạt. Hoàn toàn không có chút lừa gạt nào cả. Tôi biết đó là sự thật. Một vài năm trước tôi đã gặp Thầy của cậu ta, Lạt ma Minh Gia Đại đức, một trong những người trí tuệ nhất ở Tây Tạng, ông ấy, vì lòng tốt của mình và cũng vì tình bạn với tôi, đã trải qua một số thử thách để chứng minh rằng ông có thể làm được tương tự như Lobsang Rampa đã làm. Chúng tôi, một nhóm đặc biệt, đã thực hiện một số nghiên cứu sâu về vấn đề này. Nhưng không may, thành kiến, sự bảo thủ và ghen tị đã ngăn cản chúng tôi công bố những phát hiện của mình. Đó là điều mà tôi đã hối tiếc suốt từ ngày đó.

The human aura whatever its size, is composed of swirling bands of colours, like clouds of colours drifting on the evening sky. They alter with a person’s thoughts. There are zones on the body, special zones, which produce their own horizontal bands of colour. Yesterday,” I said, “when I was working in the library I saw some pictures in a book on some Western religious belief. Here there were portrayed figures which had auras around their heads. Does this mean the people of the West whom I had thought inferior to us in development can see auras, while we of the East cannot? These pictures of the people of the West,” I carried on, “had auras only around their heads. But I can see not merely around the head, but around the whole body and around the hands, the fingers and the feet. It is a thing which I have always seen.” The Principal turned to Po Chu. “There, you see, this is the information which I had before. I knew that Rampa had this power. He used this power on behalf of the leaders of Tibet. That is why he is studying with us so that, it is hoped, he can assist in the developing of a special device which will be of the greatest benefit to mankind as a whole in connection with the detection and cure of disease. What caused you to come here to-day?” he asked. The lecturer was looking very thoughtful. He replied, “We were just commencing practical Magnetism, and before I could show anything, as soon as I spoke about fields, this man said that he could see the fields around the magnet which I knew to be utterly fantastic. So I invited him to demonstrate upon the blackboard. To my astonishment,” he went on, “he was able to draw the field on the blackboard, and he was able also to draw the current field of a high frequency transformer, but when it was switched off he saw nothing. I am sure it was a trick.” He looked defiantly at the Principal. “No,” said Dr. Lee, “indeed it was no trick. It was no trick at all. For this is known to me as the truth. Some years ago I met his Guide, the Lama Mingyar Dondup, one of the cleverest men in Tibet, and he, out of the goodness of his heart, underwent certain tests, out of friendship for me, and he proved that he could do the same as can Lobsang Rampa. We were able—that is a special group of us—to make some serious researches into the matter. But, unfortunately, prejudice, conservatism, and jealousy prevented us from publishing our findings. It is a thing which I have regretted ever since.”

Im lặng kéo dài một lúc. Tôi nghĩ thầy Hiệu trưởng thật tử tế khi đã thể hiện niềm tin ở tôi. Người giảng viên trông thực sự buồn bã, như thể ông vừa nhận được một thất bại không mong đợi. Ông nói:

– Nếu anh có năng lực này, tại sao anh còn học y khoa làm gì?

Tôi trả lời:

– Tôi muốn học y và cũng muốn nghiên cứu khoa học để có thể hỗ trợ cho việc thiết lập một thiết bị tương tự với thiết bị mà tôi đã nhìn thấy trên Cao Nguyên Chang Tang của Tây Tạng.

Thầy Hiệu trưởng cắt ngang :

– Đúng vậy, tôi biết cậu là một trong những người đã tham gia chuyến thám hiểm đó. Tôi muốn biết nhiều hơn về thiết bị đó.

– Ngày đó, tôi nói, theo gợi ý của Đức Đạt Lai Lạt Ma, một nhóm nhỏ chúng tôi đã đi tới những thung lũng ẩn mình trong những dãy núi cao trên Cao Nguyên Chang Tang.

Ở đây, chúng tôi tìm thấy một thành phố có niên đại rất xưa, trước cả khi lịch sử loài người ghi được ghi chép, thành phố của một dân tộc cổ xưa, thành phố bị chôn vùi một phần trong băng đá, nhưng tại những nơi băng giá đã tan chảy trong thung lũng kín, những nơi mà khí hậu ấm áp, những tòa nhà và thiết bị trong đó vẫn còn nguyên vẹn. Một trong những thiết bị như thế có dạng hộp và người ta có thể nhìn qua đó và thấy được hào quang của con người, và từ hào quang đó, từ những màu sắc, những biểu hiện tổng thể, họ có thể suy luận được tình trạng sức khỏe của một người. Hơn nữa, họ có thể nhìn thấy sắc xuất một người có thể bị ảnh hưởng về thể chất từ một căn bệnh nào đó, bởi vì những khả năng này biểu hiện trong hào quang trước khi nó biểu hiện trên thân xác.

There was silence for a time. I thought how good it was of the Principal to declare his faith in me. The lecturer was looking really gloomy as if he had received an unexpected, unwelcome setback. He said, “If you have this power, why are you studying medicine?” I replied, “I want to study medicine and I want to study science as well so that I may assist in the preparation of a device similar to that which I saw in the Chang Tang Highlands of Tibet.” The Principal broke in, “Yes, I know that you were one of the men who went on that expedition. I should like to know more about that device.” “Some time ago,” I said, “at the instigation of the Dalai Lama a small party of us went upwards into a hidden valley in the mountain ranges in the Chang Tang Highlands. Here we found a city dating back to long before recorded history, a city of a bygone race, a city partly buried in the ice of a glacier, but where the glacier had melted in the hidden valley, where it was warm, the buildings and the devices contained in the buildings were intact. One such apparatus was a form of box into which one could look and see the human aura, and from that aura, from the colours, from the general appearance, they could deduce the state of health of a person. More, they could see if a person was likely to be afflicted in the flesh by any disease because the probabilities showed in the same aura before it was manifest in the flesh.

Theo cùng một cách, vi khuẩn coryza hiển thị trong hào quang một thời gian dài trước khi có biểu hiện trên thân xác như là bệnh cảm lạnh thông thường. Việc điều trị cho một người sẽ trở nên dễ dàng hơn khi họ mới chỉ chớm bệnh. Ốm đau, bệnh tật, như vậy có thể sẽ được loại trừ trước khi nó kịp gây ảnh hưởng.

Thầy Hiệu trưởng gật đầu và nói:

– Đây là điều thú vị nhất. Cậu nói tiếp đi.

Tôi tiếp tục:

– Tôi đã hình dung một phiên bản hiện đại của thiết bị cổ đó. Tôi muốn hỗ trợ cho việc chuẩn bị một thiết bị tương như vậy để ngay cả một bác sĩ hoặc nhà phẫu thuật không có chút khả năng thấu thị cũng có thể nhìn qua chiếc hộp này và thấy được màu sắc hào quang của một người. Anh ta cũng sẽ có một biểu đồ để đối chiếu và với biểu đồ đó anh ta có thể biết thực sự điều gì đang xảy ra với người bệnh. Anh ta có thể chuẩn đoán một cách chính xác mà không gặp khó khăn.

– Nhưng, người giảng viên nói, cậu quá mất chậm rồi. Chúng tôi đã có X quang!

Tiến sĩ Lee nói:

– X quang, ồ, bạn thân mến của tôi, chúng vô dụng đối với mục đích như thế này. Chúng chỉ đơn thuần cho thấy những cái bóng màu xám của xương. Lobsang Rampa không muốn hiển thị xương, cậu ấy muốn hiển thị sức sống của chính cơ thể. Tôi hiểu chính xác ý cậu ấy là gì và tôi chắc rằng khó khăn lớn nhất mà cậu sẽ phải đối mặt là thành kiến và sự ghen tị trong nghề nghiệp.

Ông quay sang tôi lần nữa:

– Nhưng làm thế nào người ta có thể giúp đỡ những người bệnh tâm lý với thiết bị này?

– Thưa Thầy Hiệu trưởng, tôi nói, nếu một người có bệnh đa nhân cách, hào quang sẽ thể hiện rõ ràng bởi vì nó sẽ cho ra một hào quang kép, và tôi cho rằng với thiết bị phù hợp, hai hào quang có thể được được đẩy vào thành một, có lẽ bằng điện tần số cao chẳng hạn.

In the same way, the germs of coryza show in the aura long before they manifest in the flesh as a common cold. It is a far easier matter to cure a person when they are only just tinged with a complaint. The complaint, the disease, can then be eradicated before it obtains a hold.” The Principal nodded and said, “This is most interesting. Go on.” I went on: “I visualize a modern version of that old apparatus. I would like to assist in the preparation of a similar device so that even the most non-clairvoyant doctor or surgeon could look through this box and could see the aura of a person in colour. He could also have a matching chart and with that chart he would be able to know what was actually wrong with the person. He would be able to diagnose without any difficulty or inaccuracy at all.” “But,” said the lecturer, “you are too late. We have X-rays already!” “X-rays,” said Dr. Lee. “Oh, my dear fellow, they are useless for a purpose such as this. They merely show grey shadows of the bones. Lobsang Rampa does not want to show the bones, he wants to show the life-force of the body itself. I understand precisely what he means and I am sure that the biggest difficulty with which he will be confronted will be prejudice and professional jealousy.” He turned to me again, “But how could one help in mental complaints with such a device?” “Reverend Principal,” I said, “if a person has split personality the aura shows very clearly indeed because it shows a dual aura, and I maintain that with suitable apparatus the two auras could be pushed into one—perhaps by high frequency electricity.”

Giờ đây, tôi đang viết điều này nơi phương trời Tây và tôi đang thấy rằng có rất nhiều người quan tâm đến vấn đề này. Nhiều người trong ngành y có địa vị cao đã bày tỏ sự quan tâm nhưng lúc nào cũng vậy, họ nói rằng tôi không được đề cập đến tên của họ vì nó sẽ làm tổn hại đến danh tiếng của họ!

Một vài nhận xét sau đây cũng đáng quan tâm: bạn đã bao giờ nhìn thấy dây cáp điện trong sương mù chưa? Nếu có, đặc biệt ở vùng núi, bạn sẽ nhìn thấy một vòng hào quang quanh sợi dây. Đó là ánh sáng mờ nhạt bao quanh sợi dây. Nếu thị lực của bạn tốt, bạn sẽ nhìn thấy ánh sáng nhấp nháy, lặn rồi lại hiện, lặn rồi lại hiện, đó là vì dòng điện chạy qua dây dẫn đảo chiều.

Điều này cũng hoàn toàn tương tự như hào quang của con người. Người xưa, tổ tiên xa xưa của chúng ta rõ ràng là đã nhìn thấy hào quang, hoặc nhìn thấy những quầng sáng, bởi vì họ đã có thể vẽ chúng trên tranh về các vị thánh. Điều mà chắc chắn không thể quy cho trí tưởng tượng của một người nào đó, bởi vì nếu nó là chỉ là trí tưởng tượng thì tại sao lại vẽ nó trên đầu, tại sao lại vẽ nó ở nơi thực sự có ánh sáng? Khoa học hiện đại đã đo được sóng của bộ não, đo được điện áp của cơ thể con người. Thực tế, có một bệnh viện rất nổi tiếng, ở đó việc nghiên cứu về tia X-quang đã được thực hiện những năm trước đây.

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng họ đã thu được ảnh của hào quang con người, nhưng họ không những không hiểu được cái mà họ có, mà còn chẳng buồn quan tâm đến nó, bởi vì họ chỉ đang cố gắng chụp ảnh xương, chứ không phải những màu sắc ở bên ngoài cơ thể, và khi nhìn vào bức ảnh hào quang họ chỉ thấy nó như mối phiền toái không ích lợi gì. Đáng tiếc thay, toàn bộ nghiên cứu liên quan đến ảnh hào quang đã bị hoãn lại, trong khi họ xúc tiến với tia X, thứ mà, theo ý kiến khiêm tốn của tôi, là phương pháp sai lầm. Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng chỉ cần một chút nghiên cứu chuyên sâu, các bác sĩ và nhà giải phẫu có thể được cung cấp sự trợ giúp tuyệt vời nhất cho việc chữa bệnh.

Tôi hình dung, như tôi đã từng nghĩ đến từ nhiều năm trước đây, một chiếc máy đặc biệt mà bất kỳ bác sĩ nào cũng có thể mang theo trong túi áo của mình, và sau đó ông ta có thể lấy nó ra và nhìn qua nó để xem xét người bệnh theo cách tương tự như đeo kính râm để nhìn lên mặt trời. Với thiết bị này, bác sĩ có thể nhìn thấy hào quang của bệnh nhân, và qua những tia màu sắc, hoặc qua những bất thường trong đường nét của hào quang, ông ta có thể chẩn đoán chính xác những vấn đề của người bệnh. Tuy nhiên, đó không phải là điều quan trọng nhất, bởi vì nhìn ra bệnh chỉ là một phần, bác sĩ cần phải biết làm thế nào để chữa cho người bệnh, và ông ta có thể làm điều đó dễ dàng với thiết bị mà tôi đang hình dung ra trong tâm trí, đặc biệt là trong trường hợp của những người bệnh tâm lý.

Now I am writing this in the West and I am finding that there is much interest in these matters. Many medical men of the highest eminence have expressed interest but invariably they say that I must not mention their name as it would prejudice their reputation! These further few remarks may be of interest: have you ever seen power cables during a slight haze? If so, particularly in mountain areas, you will have seen a corona round the wires. That is, a faint light encircling the wires. If your sight is very good you will have seen the light flicker, wane and grow, wane and grow, as the current coursing through the wires alters in polarity. That is much the same as the human aura. The old people, our great, great, great-ancestors, evidently could see auras, or see halos, because they were able to paint them on pictures of saints. That surely, cannot be ascribed by any one as imagination because if it was imagination only why paint it on the head, why paint it on the head where there actually is a light? Modern science has already measured the waves of a brain, measured the voltage of a human body. There is, in fact, one very famous hospital where research was undertaken years ago into X-rays. The researchers found that they were taking pictures of a human aura, but they did not understand what they were taking, nor did they care, because they were trying to photograph bones, not colours on the outside of a body, and they looked upon this aura photograph as an unmitigated nuisance. Tragically the whole of the matter relating to aura photography was shelved, while they progressed with X-rays, which, in my quite humble opinion, is the wrong way. I am utterly confident that with a little research doctors and surgeons could be provided with the most wonderful aid of all towards curing the sick. I visualize—as I did many years ago—a special apparatus which any doctor could carry with him in his pocket, and then he could produce it and view a patient through it in much the same way as one takes a piece of smoked glass to look at the sun. With this device he could see the patient’s aura, and by the striations of colour, or by irregularities in outline, he could see exactly what was wrong with the patient. That is not the most important thing, because it does not help to merely know what is wrong with a person, one needs to know how to cure him, and this he could do so easily with the device I have in mind, particularly in the case of those with mental afflictions.

[1] 1 inch tương đương với 2,54cm.

Dịch giả: Cộng đồng thiền Việt Nam

Biên tập: Cộng đồng thiền Việt Nam


Có thể bạn quan tâm

Xem tất cả

Đăng ký hướng dẫn Thiền cơ bản

Loading...
Logo-vmc
TRUNG TÂM THIỀN ĐỊNH:
- Số 116 Trần Vỹ, Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội
Chị Khánh:  

‎0981956875

Chị Thủy:  

‎0981956820

Facebook:

facebook.com/congdongthienVietNam

TIN TỨC NỔI BẬT

© 2024 Copyright by IT AUM