Loading...
Cộng đồng thiền Việt Nam

Chi hội phát triển cộng đồng thiền Việt Nam

Cộng đồng thiền Việt Nam

image-alt-text

Chương P – Trí tuệ người xưa -Lobsang Rampa

Chương P – Trí tuệ người xưa -Lobsang Rampa

15:56 22/10/2020

PADMASANA – TƯ THẾ KIẾT GIÀ

Bạn sẽ nhận ra tư thế này khi tôi nói với bạn rằng đó chính là tư thế Hoa Sen quen thuộc. Bạn chắc hẳn đã nhìn thấy những bức tượng ở phương Đông khắc hoạ Đức Phật trong tư thế ngồi, và thường thì Đức Phật được thể hiện trong thế ngồi hoa sen.

You will recognise this when I tell you that it is the familiar Lotus Position. You will have seen Eastern statues of Buddha sitting, and most times the Buddha is portrayed sitting in the Lotus Posture.

Một người phương Tây quen với việc ngồi trên ghế, với vị trí ngồi được nâng lên khỏi mặt đất, và chân buông thõng xuống, có thể thấy khó khăn và lạ lẫm khi ngồi như người Phương Đông; đàn ông và đàn bà phương Đông ngồi trên một mặt khá cứng với hai chân bắt chéo, để lòng bàn chân hướng lên trên, và, tất nhiên, đặt ngược chiều nhau trên hai đùi. Người Phương Đông giữ ở tư thế như vậy có thể ngồi với cột sống thẳng.

Các vị Lạt ma Tây Tạng cao niên ngồi ở tư thế đó suốt đêm, họ ngủ trong tư thế đó, và chết trong tư thế đó, một phần vì của truyền thống Lạt ma Phương Đông là họ phải giữ sự tỉnh thức lâu nhất khi họ bước vào cái chết và phải ngồi thật thẳng.

Các Samurai Nhật Bản cũng ngồi trong tư thế như vậy khi họ chuẩn bị thực hiện nghi lễ tự sát, một hành động mà họ tin rằng sẽ cứu vớt danh dự của gia đình họ.

The Western person who is accustomed to sit on a chair, the seat of which is raised off the ground, and upon which one sits with the legs hanging straight down, may find it difficult and strange to sit as the Easterner sits ; the man and woman of the East sit on a fairly hard substance with the legs crossed, so that the soles of the feet face upwards, and, of course, on opposite thighs. The Easterner in such a position sits upright with the spine erect.

In Tibet lamas of high degree sit in that position all night, they sleep in that position, and they die in that position, for it is part of the Eastern lamastic tradition that one shall stay conscious as long as possible when dying, and shall sit upright.

The Japanese Samurai sat in such a position when he was about to commit ceremonial suicide, an act which he believed would save the honour of his family.

Người phương Tây nghiên cứu các chủ đề huyền bí không thể lúc nào cũng ngồi trong tư thế Hoa Sen vì phong tục tập quán hoặc – xin được nói thẳng – vì họ bị cứng khớp. Dù sao đi nữa, tư thế này không phải là điều quan trọng sống còn. Tư thế Hoa Sen đúng là rất tốt cho việc thiền định, nhưng tư thế thực sự phù hợp với bất kỳ ai là tư thế mà ở đó bạn cảm thấy thoải mái nhất trong khi vẫn giữ được cột sống thẳng. Nếu bạn muốn ngồi bắt chéo chân, hãy làm như vậy, và chỉ cần đặt hai bàn tay lên trên hai đùi của bạn. Khi bạn đang ngồi thiền, đừng hé miệng, và hãy đặt đầu lưỡi của bạn nhẹ nhàng lên mặt sau của răng. Cằm của bạn nên cúi xuống để nó không không tạo ra sức ép cho ngực bạn.

Nếu có thể, hãy giữ cho mắt không tập trung vào một điểm nào cả, hoặc nếu bạn thích, hãy nhìn vào khoảng không vô định. Mắt không nên chớp hoặc nhìn từ vật này sang vật khác. Điểm mấu chốt ở đây là mắt không nên nhìn.

Nếu bạn ngồi như gợi ý ở đây, hít thở nhẹ nhàng và êm ái, với một nhịp điệu nhất định, bạn sẽ khám phá ra rằng đó là một sự trợ giúp tuyệt vời để thư giãn. Tất nhiên – xin được nhắc lại – bạn nên ngồi với cột sống thẳng trừ khi bạn có một số tật khiến bạn bị đau trong tư thế đó.

The Westerner studying occult subjects cannot always sit in the Lotus Position because of convention or because of — let us be painfully blunt — stiff joints ! No matter, the position is not of vital importance. The Lotus Posture is, admittedly, very good for meditation, but the really suitable position for anyone is that which is the most comfortable but which yet keeps the spine erect. If you want to sit with your legs crossed, do so, and just place your hands on your thighs. When you are meditating keep your mouth closed, and let the tip of your tongue rest lightly against the back of your teeth. Your chin should droop so that it is barely supported on your chest.

Your eyes should be unfocused if you can manage it, or if you prefer, gazing into infinity. They should not flicker or wander from object to object. The point here is that your eyes should not see.

If you sit as suggested here, and breathe gently and smoothly, and with a definite rhythm, you will discover that it is an excellent aid to relaxation. Of course — to repeat — you should sit with your spine upright unless you have some defect which gives you pain in that position.

PANCHATAPA – THỬ THÁCH PANCHATAPA

Từ này tôi đã mô tả trong cuốn sách The Third Eye (Con mắt thứ ba). Tôi đã trải qua thử thách này. Có lẽ ở đây tôi nên nhắc lại một lần nữa rằng cuốn Con mắt thứ ba là sự thật, tất cả những gì tôi từng viết đều là sự thật. Nhưng hãy để chúng ta quay lại với Panchatapa.

Đây là một sự khổ luyện nghiêm khắc trong đó một người phải ngồi ở tư thế Hoa sen rất chắc mà không được nhúc nhích, từ lúc tia sáng đầu tiên trong ngày xuất hiện cho đến khi tia sáng cuối cùng đã mờ dần và thay thế bằng bóng tối của đêm. Người đó không được phép di chuyển vì bất kỳ mục đích nào, không được phép duỗi chân và cũng không được đi bộ. Người ấy phải ngồi, ngồi và ngồi.

Thông thường, bốn ngọn lửa lớn được thắp ở Đông, Tây, Nam, Bắc và lửa ở gần người đến mức khó chịu, vì vậy mà người đó trở nên gần giống như thịt quay. Ý đồ của nó là để tôi luyện người ta qua thử thách khắc nghiệt. Một người giàu kinh nghiệm đều biết là phải thiền định theo cách này trong bảy ngày, đó là, từ bình minh đến nhá nhem tối, trong thế ngồi bất động, ban đêm anh ta được ngủ và ăn các bữa ăn đã bị bỏ ban ngày.

Điều này rất tốt cho việc phát triển sức mạnh thiền định của một người, bởi vì nếu không thiền thì người ấy sẽ bị xâm lấn bởi bởi các ham muốn xác thịt, v.v, nhưng nếu người ấy thiền thì anh ta sẽ “thoát ra khỏi thế giới này”.

Dĩ nhiên, người Phương Tây hoàn toàn không được khuyến nghị làm những điều như thế này bởi nó đòi hỏi việc tập luyện chuyên sâu.

This I described in the book “The Third Eye”. I have been through this ordeal. Perhaps here I may again remind you that The Third Eye is true, all I have written is true. But let us return to Panchatapa.

This is a very severe treatment in which one has to sit in a tight — very tight — Lotus Position without moving, from the first light of day until the last light of day has faded and been superseded with the darkness of night. One is not permitted to move for any purpose whatsoever, one is not permitted to uncross one’s legs nor to take a walk. One has to sit, and sit, and sit.

Normally, four big fires are lit, North, East, South, and West, and the fires are painfully close to one, so that one becomes almost like roast pork. The idea is to harden one by severe discipline. It has been known for a very experienced person to meditate in that manner for seven days, that is, from dawn to dusk sitting motionless, and during the night hours sleeping and having the meals which were denied during daylight.

This is very good for developing one’s powers of meditation, because if one does not meditate one is oppressed by body desires, etc., but if one does meditate then one “gets out of this world”.

Naturally, it is not at all recommended that Westerners shall do a thing like this because it demands intensive training.

PANDIT – HỌC GIẢ

Rất nhiều người sẽ bị ấn tượng mạnh khi họ nghe về Học giả này hay Học giả kia.

Một người có thể tự gọi mình là “Chuyên gia”, nhưng cho dù đó là Chuyên gia hay Học giả, Học giả hay Chuyên gia, nó cũng giống nhau.

Học giả là tên gọi phương Đông cho một người nghiên cứu chuyên sâu về Kinh điển và nhiều sách tôn giáo khác nhau. Ta có thể nói nó chỉ như một người giảng đạo không chuyên trong Thiên Chúa giáo. Nói cách khác, một người giảng đạo không chuyên có thể làm một số công việc nhất định trong Giáo Hội, nhưng anh ta vẫn không phải là một nhà truyền giáo – không phải là một nhà truyền giáo được sắc phong, và một Học giả cũng có địa vị như vậy, hoặc thiếu địa vị như vậy.

A lot of people are vastly impressed when they hear of Pandit This or Pandit That.

A person may call himself “Pundit” instead, but whether it is Pandit or Pundit, or Pundit or Pandit, it is precisely the same.

Pundit is an Eastern name for one who has thoroughly studied the Scriptures and various religious books. You might say that in the Christian religion it approximates to a lay preacher and no more. In other words, a lay preacher is able to do certain offices in the Church, but he is still not a preacher – not an ordained preacher, and a Pundit or Pandit occupies much the same status, or lack of status.

PARA – TỐI CAO

Từ này thường theo sau một tiền tố “Điều”, do đó, nó trở thành “Điều Tối Cao”. Nó nói đến những gì vượt ngoài con đường Bát Chánh Đạo. Để hiểu một cách rõ ràng hơn, hãy coi nó như là một cái gì đó tối cao, vượt ngoài thế giới này.

Chúng ta có từ Para-bhakti (Sự tôn kính tối cao). Từ này muốn nói tới sự tận tuỵ của một người đối với Thượng Đế mà người đó tôn thờ. Nó có nghĩa là một người mộ đạo.

Một cách sử dụng khác cho từ Para là Para-Vidya – (Tri thức tối cao). Từ ghép này đề cập đến và có nghĩa là kiến thức tối thượng.

Nếu bạn ở Ấn Độ bạn sẽ thấy rằng những người Bà-la-môn là những người sử dụng nhiều nhất từ Para-Vidya (Tri thức tối cao), họ gần như giữ độc quyền về từ này, sử dụng nó nhiều hơn bất kỳ tín đồ tôn giáo nào khác, vì đối với họ nó biểu thị tri thức tối thượng, vĩ đại, và thuần khiết của Chân Ngã.

This usually has a prefix “the,” so it becomes “the para”. It just means that it is referring to that which is beyond the Eightfold Path. To make it clearer regard it as being supreme, beyond.

This indicates that one offers one’s devotion to the God whom one worships. It means a devout person.

Another use for para is in Para-vidya. This combination word refers to and means supreme knowledge.

If you were in India you would find that the Brahmins are the most consistent users of Para-vidya, they have almost a monopoly of the word, using it for more than any other religious adherents, because to them it indicates the great, the pure, the supreme knowledge which was Brahman’s.

PARAMATMA – ĐẠI NGÃ

Đây là một từ khác liên quan tới anh bạn cũ “para” của chúng ta. Trong trường hợp này, nó ám chỉ Chân ngã Tối cao, Atma Tối cao, phần vượt ngoài xác thịt của chúng ta. Đó là Chân Ngã của mỗi chúng ta, nó kiểm soát cơ thể con người khi ở trên Trái Đất và khi ở trên các hành tinh khác.

Sẽ thuận tiện hơn khi sử dụng từ “Chân Ngã”, bởi vì những cái tên như Đại Ngã, Tự Ngã, hay Tiểu Ngã chỉ đơn thuần dẫn đến sự nhầm lẫn.

This is another word with our old friend “para”. In this case it refers to the Supreme Self, the Supreme Atma, that which is us far above the flesh. It is our own personal Overself, that which controls the human body when on Earth and on other planets.

It is much more convenient to say “Overself”, because names such as Paramatma, Atma, or Jivatma merely lead to confusion.

PATH – ĐƯỜNG ĐẠO

Trong quan niệm phương Đông, từ này được gọi là “Đường Đạo”. Đối với người Phật tử, “Đường Đạo” còn được hiểu là “Con đường Bát Chánh đạo”. Đó là một lối sống, trong đó cách hành xử, hoặc sự tiết chế hành vi, đưa đến sự giải thoát khỏi luân hồi, và do đó đưa đến sự giải thoát khỏi đau khổ. Chừng nào còn sống trong thân xác thì sẽ còn đau khổ, hoặc có khả năng phải chịu đau khổ.

Con đường Bát Chánh Đạo là một quy tắc sống, và mặc dù nó thường được gọi là một tôn giáo, nó thực sự chỉ hướng dẫn cách mà một người có chính kiến sẽ hành xử trong cuộc sống. Nếu bạn nghĩ về Thiên Chúa giáo thì Đạo Thiên Chúa là một tôn giáo, nhưng Mười điều răn (của Thiên Chúa Giáo) không nhất thiết phải là “một tôn giáo”, mà chỉ là một quy tắc ứng xử, việc tuân thủ theo nó sẽ khiến một người trở thành một tín đồ xứng đáng của niềm tin tôn giáo đó.

Tám giai đoạn của Bát Chánh Đạo là:

  1. Chánh kiến – Hiểu đúng.
  2. Chánh tư duy – Động cơ đúng.
  3. Chánh ngữ – Nói đúng.
  4. Chánh nghiệp – Hành xử đúng.
  5. Chánh mạng – Sống đúng.
  6. Chánh tinh tấn – Nỗ lực đúng.
  7. Chánh niệm – Tỉnh thức đúng.
  8. Chánh định – Thiền đúng (suy tưởng đúng).

Khi bạn có thể làm tất cả những điều đó một cách đúng đắn bạn sẽ thấy rằng cuộc sống thật khó khăn cho mình, bởi nó có nghĩa là bạn đang ở trong kiếp sống cuối cùng của mình, và trong suốt kiếp sống cuối này, luôn có đau khổ và mất mát bởi thời gian này, bạn đang hoàn trả nốt những thứ vặt vãnh trước khi bước tiếp với một lương tâm thanh thản và không còn món nợ nào nữa.

In Eastern lore this is referred to as “The Path”. To the Buddhist “The Path” is also known as the “Noble Eightfold Path”. It is a way of life, that behaviour, or abstinence from behaviour, which leads to release from reincarnating, and thus eventually to release from suffering. For as long as there is life in the body there is suffering, or the possibility of suffering.

The Noble Eightfold Path is a code of living, and although it is often called a religion, actually it merely guides the manner in which the right-thinking person should conduct himself during life. If one considers the Christian religion, Christianity is a religion, but the Ten Commandments would not necessarily be “a religion”, but a code of conduct, the following of which would make one a worthy exponent or adherent of that religious belief.

The Eight Stages of the Noble Eightfold Path are :

  1. Correct understanding.
  2. Correct motive.
  3. Correct speech.
  4. Correct conduct.
  5. Correct living.
  6. Correct effort.
  7. Correct intellectual activity.
  8. Correct contemplation.

When you can do all that correctly you will find that life will be very hard for you, because it will mean that you are on your last incarnation, and during one’s last incarnation there is always suffering and loss because at such time one is clearing up the odds and ends necessary before one can move on with a clear conscience and with no bills outstanding.

PEACE – BÌNH AN

Bình An là sự vắng mặt của xung đột bên trong lẫn bên ngoài. Bình An là khi bản thân và môi trường xung quanh hòa hợp với nhau thay vì ở trong trạng thái xung đột. Nhiều người trong số những người được gọi là “Bình An” đang có một thời gian giải lao, nghỉ ngơi trong nhiều kiếp sống. Đối với những người này- những người chỉ đang nhìn thời gian trôi – mọi thứ xảy ra một cách êm ả như một hồ nước sâu và phẳng lặng, không gợn sóng trên bề mặt. Nhưng đó không phải là một dấu hiệu tốt khi toàn bộ cuộc sống của người đó quá yên ả, nó cho thấy họ không có nhiều tiến bộ! Nếu một người muốn thiền định thành công thì phải tránh những xung đột bên trong, mặc dù một Bậc Tinh Thông có thể thiền định thành công ngay cả khi có xung đột bên ngoài; một Bậc Tinh Thông thực sự có thể thiền định ngay cả khi quanh họ là các thành viên náo nhiệt của một ban nhạc kèn đồng, những người đang trình diễn tiết mục đặc biệt tối thứ bảy của họ. Một bài tập như vậy không được khuyến khích bởi vì, trừ khi người đó đã đạt đến một trình độ nhất định, còn không nó có thể bị gây trở ngại.

Peace is the absence of conflict internally and externally. Peace is when oneself and one’s surroundings are in harmony instead of being in a state of conflict. Many of those who are stated to be “peaceful” are having an interlude, or rest, in a whole series of lives. For them — they are just marking time — things go peacefully like a deep and placid pool, unruffled on the surface. But it is not a good sign when one’s whole life is too peaceful, it shows that one is not making much progress ! If one is to meditate successfully one must avoid inner conflict, although the Adept can meditate successfully even when there is outer conflict ; an Adept can actually meditate when surrounded by the enthusiastic members of a brass band who are putting out their Saturday night best. Such an exercise is not to be recommended because, unless one has reached a certain stage, it can be an upsetting process.

PERCEPTION – NHẬN THỨC

Chúng ta phải “nhận thức” trước khi chúng ta có thể đạt được bất kỳ kiến ​​thức nào. Chẳng hạn, một học trò trước tiên phải lắng nghe điều mà anh ta được dạy. Thứ nhì, anh ta phải suy ngẫm về những gì mà anh ta đã được nghe, và từ những thông tin đó, anh ta toàn quyền đưa ra nhận định của riêng mình, đưa ra kết luận của riêng mình, và có một vài ý tưởng của riêng mình.

Thứ ba, một người đã trải qua hai giai đoạn trước, và do đó không còn là một học trò nữa, bây giờ đã đạt đến giai đoạn mà anh ta có thể tự mình nhận thức mọi thứ mà không cần phải có người khác chỉ bảo hay hỗ trợ.

Nhiều khả năng là anh ta đã tiến bộ đủ để có thể thoát ra khỏi cơ thể và xuất vía tới “Hành lang ký ức”, nơi mà anh ta có thể tham khảo Thư viện Akashic về quá khứ, hiện tại và những khả năng của tương lai. Khi một người đã đạt đến giai đoạn đó, anh ta được cho là đã đạt đến Kỷ nguyên của nhận thức.

We have to “perceive” before we can attain any knowledge. For example, a student first listens to that which he is told. Secondly, he considers that which he has been told, and from the information then at his disposal he forms his own judgement, reaches his own conclusions, and has a few ideas of his own

Thirdly, the person who has passed through the two previous stages, and thus is no longer a student, has now reached the stage where he can perceive things at first hand without being told or assisted by others

Probably he has now advanced sufficiently so that he can reach out from the body and visit astrally the “Hall of Memories”, where he can consult the Akashic Record for the past, the present, and the probabilities for the future. When a person has reached that stage he is stated to have reached the Age of Perception.

PINGALA – NĂNG LƯỢNG PINGALA

Đây là một kênh năng lượng ở phía bên phải của cột sống. Nó chứa các dây thần kinh cảm giác và vận động có ảnh hưởng tới cuộc sống vật lý của một người cũng như cuộc sống siêu hình của anh ta.

Ida là một kênh hoặc cột năng lượng tương tự (bên trái), và khi Pingala và Ida có thể được điều khiển theo ý của người sở hữu chúng thì thời gian, vật chất và khoảng cách không còn nghĩa lý, và không còn là một chướng ngại hay một hạn chế. Người đó trong thời khắc hạnh phúc này có thể nói, “Song sắt nhà tù không còn là nơi giam cầm”.

Người có những khả năng như vậy có thể hoàn thành việc du hành thể vía có ý thức, thần giao cách cảm, nhãn thông và trong điều kiện thích hợp có thể thực hiện cả khinh công.

This is a channel on the right side of the spinal cord. It contains sensory and motor fibers which have a bearing on one’s physical life as well as on one’s metaphysical life.

The Ida is a similar tube, or column, and when the Pingala and the Ida can be controlled freely by the person in whom they are located, time, material, and distance have no meaning, and are no longer a bar or a restraint. One is then in the happy position of being able to say, “Prison bars do not a cage make”.

The person with such abilities can accomplish conscious astral travelling, telepathy, clairvoyance, and under suitable conditions levitation as well.

PLANES OF EXISTENCE (Puppets) – CÁC CẢNH GIỚI TỒN TẠI (những con rối)

Rất nhiều người không hề biết họ thực sự là ai và tại sao họ đến đây. Họ tự hỏi tại sao một thực thể mạnh mẽ như Chân Ngã lại bị ràng buộc để trông nom một con người nhỏ bé, tội nghiệp và yếu ớt. Chà, mọi thứ không đơn giản như vậy!

Chân Ngã giống như một người điều khiển con rối. Như cách người điều khiển con rối xoay xở những chiếc dây của nhiều con rối cùng một lúc, Chân Ngã cũng có thể quản lý Sợi Chỉ Bạc của nhiều con người khác nhau. Một người có thể ở Anh và một người khác ở Châu Phi, Úc, hoặc thậm chí là trên một hành tinh khác; tất cả họ đều có thể ở dưới sự kiểm soát của cùng một Chân Ngã.

Chúng ta có thể gọi họ là cư dân của những thế giới song song, bởi vì theo một số niềm tin thì tất cả mọi sự đã từng xảy ra, và sẽ xảy ra, đều có chung một mẫu số. Quá khứ, hiện tại và tương lai chỉ là một. Giống như khi bạn ở trên mặt đất và trên một con phố, bạn không thể nhìn thấy góc phố, và do đó những thứ đang mấp mé quanh góc phố sẽ là tương lai của bạn. Nhưng nếu bạn bay lên cao trên một chiếc trực thăng, bạn có thể thấy thứ gì đang tiến lại gần góc phố, và thế là bạn có thể nhìn thấy tương lai một cách rõ ràng.

Xuyên suốt lịch sử đã có những trường hợp mà trong đó người đàn ông hoặc đàn bà đột nhiên bị “chiếm hữu”, và đã làm những việc tưởng chừng không phù hợp với họ. Hãy xem xét trường hợp của nữ anh hùng Joan xứ Arc: một cô gái trẻ đã dành rất nhiều thời gian ở một mình, người ta đồn rằng cô đã nghe thấy những tiếng nói, và những tiếng nói đó thúc giục cô dẫn dắt đất nước của mình. Và cô đã làm đúng như vậy, như một người đàn ông khoác lên mình áo giáp, và dẫn quân vào chiến trận.

Bạn có biết chuyện gì đã thực sự xảy ra không? Những sợi dây điều khiển con rối đã bị vướng vào nhau. Joan xứ Arc là một cô gái trẻ mà Sợi Chỉ Bạc của cô đã vướng vào Sợi Chỉ Bạc một người có lẽ ở một quốc gia khác, có lẽ ở một hành tinh khác, một người có nhiệm vụ phải làm những việc nhất định. Joan đã tự thuyết phục mình và biến những giọng nói thành những điều phù hợp với hoàn cảnh của cô. Người ta không khỏi băn khoăn liệu điều gì đã xảy ra với chàng trai trẻ, người đáng ra phải dẫn dắt đất nước của anh ta. Liệu anh ta có trở nên giống như một cô gái, suốt ngày mơ mộng một mình?

Có những thế giới song song, có những thế giới mà chúng ta không thể nhìn thấy bởi vì chúng thuộc những tần số rung động khác. Chúng ta có thể thấy ánh sáng, nhưng chúng ta không thể thấy sóng vô tuyến, mặc dù chúng di chuyển với cùng một tốc độ. Chúng ta có thể thấy thế giới này mà chúng ta đang sống, nhưng nếu một thế giới khác được xếp chồng lên nó thì sao? Chúng ta không thể thấy thế giới kia giống như chúng ta không thể thấy sóng vô tuyến, nhưng trong giấc ngủ của chúng ta, trong những chuyến du hành thể vía, chúng ta có thể đến thăm nó.

Chúng ta đều đã bắt gặp những nhóm người, có lẽ cả một gia đình, những người vô cùng gắn bó với nhau, những người hành động như một tập thể với những mối quan tâm giống hệt nhau, và hoàn toàn khốn khổ khi một thành viên của nhóm bị chia cách. Những người này, các thành viên của một gia đình, họ có thể đều là những con rối của một Linh hồn. Hầu hết chúng ta là thành viên của một nhóm, có nghĩa là khi chúng ta ở đây, trên đất nước này, chúng ta có thể có những bản sao ở các nước khác hoặc các hành tinh khác, và đó là lý do mà đôi khi chúng ta có kiến ​​thức về một quốc gia mặc dù chúng ta chưa từng đến đó. Đó là lý do mà chúng ta có thể có một kiến ​​thức hoàn chỉnh và rõ ràng về một hành tinh khác.

Many people are not able to understand what they are and why they are. They wonder why such an all-powerful person as the Overself shall be constrained to deal with just one poor puny little human. Well, it is not so simple as that !

The Overself is like a puppet master. Just as the manipulator of puppets can manage the strings of several puppets at once, so can the Overself manage the Silver Cords of quite a number of different people. A person can be in England and have another person in Africa, Australia, or even on another planet ; they can all be under the control of the same Overself

We might say that these are like inhabitants of parallel worlds, because according to some beliefs everything that has ever happened, and ever is going to happen, has a common denominator. The past, the present, and the future are one. It is like being on the ground in a street, you cannot see round the corner, and so that which is coming round the corner is in the future to you. But if you go up in a helicopter you can see that which is approaching the corner, so you can see the future clearly

Throughout history there have been cases where men or women have suddenly been “possessed”, and have done things for which they were normally quite unfitted. Consider the case of Joan of Arc: Here there was a young girl who spent a lot of time alone, it was stated that she heard voices, and those voices exhorted her to lead her country. She did so, she became as a man, wearing armour, leading men into battle.

Do you know what really happened ? The strings of the puppets became entangled. Joan of Arc, a young girl, had her Silver Cord entangled with a person perhaps in another country, perhaps on another planet, who had to do certain things. Joan rationalised and made the voices say the things which applied to her own conditions. One cannot help wondering what happened to the young man who was going to lead his country. Did he become as a young girl, spending much time alone daydreaming?

There are parallel worlds, there are worlds which we cannot see because they are of a different vibration. We can see light, but we cannot see radio waves, and yet they travel at much the same speed. We can see this world in which we now live, but what if another world is superimposed upon it ? We could not see that world any more than we can see radio waves, but in our sleep, in our astral travel, we could visit it.

We have seen groups of people, perhaps a whole family, who were completely tied together, who acted as a group having identical interests, and being thoroughly miserable when one member of the group was away. These people, members of one family, they may have been all puppets of one Overself. Most of us, though, are one of a group, that is, we may be here in this country and we may have counterparts in other countries or on other planets, and that is why sometimes we have a knowledge of a country even though we have not consciously been there. That is why we may have a complete and clear knowledge of another planet.

PLEASURES and PAIN – LẠC THÚ VÀ ĐAU KHỔ

Máy móc có các bộ điều khiển, các bộ kiểm soát tốc độ. Một máy hát là ví dụ, nó có cụm điều chỉnh hoặc bộ điều khiển giới hạn tốc độ đảm bảo cho đĩa nhạc quay ở tốc độ chính xác và chơi nhạc ở tông độ chuẩn.

Con người cũng có bộ điều khiển, và bộ điều khiển hay người kiểm soát của tâm thức nhân loại một bên là lạc thú, và phía kia là đau khổ. Một người bình thường nằm đâu đó giữa hai thái cực này; anh ta học cách tránh né đau khổ để có thể trải nghiệm hạnh phúc thông qua sự vắng mặt của khổ đau. Anh ta cũng học, trong hối tiếc, rằng một số thú vui gây ra đau khổ. Trong giai đoạn đầu của CON NGƯỜI, có sự thờ ơ và không muốn nỗ lực, không có ham muốn làm gì cả. Một người nguyên thuỷ sẽ không đi tìm thức ăn nếu anh ta không bị tấn công bởi những cơn đói. Sau khi phát hiện ra rằng thực phẩm mang lại lạc thú, anh ta lại có xu hướng ăn quá nhiều, và sau đó anh ta thấy rằng việc ăn quá nhiều cũng gây đau khổ.

Cứ lạc thú rồi lại đau khổ, lạc thú rồi đau khổ. Chu kỳ đan xen giữa lạc thú và đau khổ dạy con người những gì nên làm và không nên làm. Bằng cách trải nghiệm những lạc thú bị biến thành đau khổ mà con người học cách dừng thói nuông chiều bản thân quá mức trước khi niềm vui được thay thế bởi nỗi đau, và từ đó hình thành một dạng trí khôn.

Một Bậc Tinh Thông học cách không chạy theo những lạc thú cao độ  để rồi phải chịu những đau khổ tột cùng. Ngài biết rằng mình phải duy trì sự quân bình để không bị tấn công bởi lạc thú cũng như đau khổ. Vì vậy, ngài học cách kiểm soát cơ thể mình, và nhờ sự kiểm soát cơ thể, ngài có thể du hành thể vía, có khả năng thấu thị và nếu tiến bộ, ngài có thể tách rời thể xác để sống như một ẩn sĩ – nhiều năm không có ánh sáng – chỉ được ăn sau hai hoặc ba ngày. Thời gian còn lại, ngài rời cơ thể, và thể vía của ngài chu du khắp các ngọn núi, các đại dương, và  các vùng đất. Bằng cách thoát xác, ngài có thể ghé thăm tất cả các đất nước trên thế giới, và không có gì là bí mật với ngài. Ngài có thể đến những phòng họp lớn như một bóng ma vô hình, song vẫn nhận thức được mọi sự đang xảy ra. Nhưng một người như vậy chỉ hoàn toàn tách khỏi cơ thể cho đến khi cái chết cắt đứt Sợi Chỉ Bạc.

Mechanisms have governors, speed controllers. A gramophone, as an illustration, has a governor or controller which limits its speed and keeps it constant so that the record turns at the correct speed and plays music at the right pitch

Humans also have governors, and the governors or controllers of a human being are, at one end, pleasure, and at the opposite end, pain. The average human lives somewhere between the two extremes ; he learns to avoid pain in order that he may experience pleasure through the lack of pain. He learns also, to his regret, that some pleasures cause pain. In the early stages of Man there is lethargy and an unwillingness to make any effort, there is desire to do nothing. The savage will not hunt food unless he first be assailed by the pangs of hunger. Having discovered that food brings pleasure, he tends to over-eat, but then he finds that over-eating causes pain.

Pleasure, pain, pleasure, pain. The cycle of pleasure alternating with pain teaches one that which can be and that which cannot be. By having pleasure which turns to pain a human learns to stop indulging excessively before the pleasure be supplanted by pain, and thus there is the start of a form of intelligence.

The Adept learns not to try for high pleasures or he will get low pains. He learns that he must maintain an equable temperament so that he is not assailed by pleasure or by pain. Thus he learns control of his body, and by obtaining control of his body he is able to do astral travelling, clairvoyance, and provided he progresses he can later obtain disassociation from the body so that he can be immured in a hermit’s cell — walled up for years without any light — Then he may be fed every two or three days. The rest of the time he is disassociated from the body, and his astral form goes soaring away over the mountains, over the oceans, and over the lands. By being so disassociated he can visit all the countries of the world, and nothing is secret from him. He comes to the council chambers of the great as a soundless invisible ghost, who yet can be aware of all that is happening. But such a person is not permanently separated from the body until death severs the Silver Cord.

POLTERGEISTS – YÊU TINH

Có những tinh linh đặc biệt thích gây khó chịu cho con người. Chúng được gọi là yêu tinh. Chúng tinh quái như khỉ, và dĩ nhiên chúng không có đầu óc lý luận.

Có nhiều tinh linh thuộc loại yêu tinh. Thông thường, chúng không có năng lượng dĩ thái để di chuyển bất kỳ đồ vật nào, và vì thế chúng tìm kiếm những cô gái trẻ (hoặc thậm chí là một chàng trai trẻ, mặc dù anh ta sẽ có ít năng lượng hơn), người vừa mới bước vào tuổi mới lớn, một cô gái trẻ từ mười hai tuổi đến mười bốn tuổi, người có rất nhiều năng lượng dĩ thái chưa được định hướng và sẽ được dùng để chuẩn bị cho cô trở thành phụ nữ. Nếu yêu tinh có được năng lượng đó – Năng lượng dĩ thái – từ cô gái trẻ, thì từ năng lượng đó vật chất có thể được di chuyển, ví dụ, một chiếc ghế có thể bị đảo ngược mặc dù không có ai chạm vào nó.

Nguồn năng lượng (chính là cô gái trẻ) không nhất thiết phải ở trong cùng một căn phòng, nhưng cũng không quá mười lăm mét so với chỗ có màn trình diễn ra.

Yêu tinh chỉ biểu lộ được khi con người đang sợ hãi. Những Tinh linh thích phá hoại này chỉ đơn thuần muốn doạ nạt con người, và con người càng sợ hãi thì tinh linh càng khoái trá.

There are certain elementals who specialise in causing discomfort to humans. These are called poltergeists. They are mischievous like monkeys, and of course they have no reasoning power.

There are many elementals of the poltergeist type. Normally, they have not the etheric power to move any material object, and then they seek to find a young girl (or even a young boy, although he will have less power) who is just entering into womanhood, a young girl of from twelve to fourteen years of age, who has a lot of etheric energy which is undirected and is about to be channeled into womanhood. The poltergeist manages to obtain energy — etheric energy — from the young girl, and with that energy articles can be moved, for example, a chair can be overturned when no one is within reach of it

It is not necessary for the energy source (the young girl) to be in the same room, although she must be within about fifty feet of the manifestation.

Poltergeists only do manifestations when humans are frightened. The elemental, who is always destructive, merely desires to terrify a human, and the more frightened the human becomes the more pleasure does the elemental derive

POWER – SỨC MẠNH

Mỗi sinh vật sống, cho dù là con người, động vật, hay thậm chí là cây cối, đều tìm kiếm sức mạnh. Trong rừng, những cây dây leo trên mặt đất di chuyển qua lớp đất tới những cây cao nhất. Chúng phát triển, leo lên cao hơn và cao hơn đến các cành cây trên cùng, nơi chúng lấy thêm sức mạnh từ ánh sáng mặt trời. Những cây này mọc lên, và trong quá trình đó chúng siết chặt lấy cây chủ bất đắc dĩ. Hãy thử nghĩ về cây thường xuân quấn quanh một cây thông già; và hãy thử gỡ bỏ cây thường xuân và nhìn vào những vết cắm sâu trên vỏ cây thông già.

Một cá thể mạnh sẽ tìm cách thống trị những cá thể yếu hơn trong giống loài của mình. Anh ta nghĩ rằng bằng cách thống trị, anh ta sẽ không có gì phải lo sợ, vì chừng nào người khác còn sợ anh ta thì họ sẽ không dám tấn công.

Con người tìm kiếm quyền lực thông qua việc lạm dụng tiền bạc, hoặc qua việc tự nâng cao tầm quan trọng của bản thân. Một số khác tìm kiếm quyền lực bằng cách tuyên bố mình cao siêu trong một niềm tin tôn giáo nào đó, và bằng cách hăm doạ những người khác về sự tra tấn, cực hình hay đau khổ sẽ xảy ra nếu như kẻ yếu không tuân theo kẻ mạnh.

Những kẻ lạm dụng quyền lực nên ghi nhớ điều này: Kẻ mạnh phải hào phóng với những người nghèo và thiếu thốn, vì vòng đời xoay chuyển như một bánh xe, mang sự giàu có cho người này và sự khốn khó cho kẻ khác, và bánh xe cứ quay hết kiếp này đến kiếp khác, mỗi kiếp sống chỉ như một nan hoa của bánh xe, thế là người giàu trở nên nghèo và người nghèo trở nên giàu, và những người đau khổ bây giờ sẽ có hạnh phúc trong khi những người hưởng thụ mà không giúp đỡ người khác sẽ biết đến sự khốn khổ, đau đớn và bất hạnh. Vì vậy, kẻ mạnh hãy biết thương xót, hãy trở nên hữu ích, hãy cứu trợ và nâng đỡ kẻ khó và rồi đến lượt anh ta trong những thời khắc nguy khốn cũng sẽ nhận được sự giúp đỡ từ người khác.

Every living creature, whether human, or animal, or even vegetable, seeks power. In the forest the creeping plants of the ground move across the earth to the tallest tree. They grow and climb up and up to the topmost branches, where they derive extra power from the sunlight. The plant grows, and in doing so strangles its unwilling host. Think of ivy around an old fir tree ; strip off the ivy and look at the deep scores in the bark of the tree.

The strong animal seeks to dominate those of his species who are weaker. His thought is that in dominating he has nothing to fear, for if others are afraid of him they will be afraid to attack

Humans seek power through the misuse of money, or by self-styled importance. Others seek power by claiming to be high in some religious belief, and by telling others that there will be various tortures, or torments, or sufferings, unless the weaker person obeys the stronger.

Those who abuse power should remember this : Let the powerful man be generous to the poor and needy, for the cycle of life revolves like the wheel of a cart bringing riches to one and poverty to another, bringing happiness to one and misery to the other, and as the wheel revolves through life after life, with each life being as a spoke of the wheel, so the rich become poor and the poor become rich, and those who suffer now shall have happiness and those who are overjoyed without helping others shall know the pangs of misery, pain, and sorrow. Thus it is, let the powerful man be merciful, let him be helpful, let him bring help and succour to those in need that he in his time of need shall have help from others.

But the real power while one is on Earth is the power conferred by meditation. By meditating correctly we can obtain :

Nhưng sức mạnh thực sự khi con người ở trên trái đất chính là sức mạnh thiền định. Bằng cách thiền định đúng cách, chúng ta có thể đạt được:

  1. Quyền tự do tiếp cận Thư viện Akashic. Điều này sẽ cho chúng ta kiến ​​thức về tất cả mọi sự đã xảy ra trong quá khứ, không chỉ với chúng ta mà với cả thế giới và những thế giới bên ngoài. Chúng ta cũng sẽ biết, những gì đang xảy ra tại thời điểm hiện tại, và nếu chúng ta có lý do chính đáng, chúng ta có thể tham khảo Thư viện Akashic về những khả năng của tương lai.
  2. Thần giao cách cảm với động vật; đây là một kinh nghiệm bổ ích nhất, bởi vì động vật có trí thông minh cao mà con người không hay biết.
  3. Hiểu biết về tiền kiếp của mình, và tiền kiếp của những người khác. Hiểu biết này thu được bằng các phương pháp khác ngoài phương pháp tham khảo Thư viện Akashic.
  4. Thần giao cách cảm với những người có tầm vóc tâm linh ngang hàng, bất kể họ thuộc thế giới nào, và bất kể họ ở bên ngoài thế giới này.
  5. Biết trước thời điểm chết cho phép chúng ta đảm bảo rằng các khoản nợ của chúng ta được thanh toán, và lương tâm chúng ta thanh thản.
  6. Nhãn thông. Khả năng nhìn thấy những nơi xa xôi, biết về các sự việc đang diễn ra và xác suất của những sự việc sẽ diễn ra.
  7. Thiền định cho phép người ta kiểm soát vật chất. Tâm trí có sức mạnh chỉ huy vật chất, và khi chúng ta có thể làm điều đó chúng ta có thể du hành thể vía, bởi vì xuất vía thực chất là một điều rất đơn giản.

 

  1. Free access to the Akashic Record. This will give us a knowledge of everything that has happened in the past, not merely to us but to the whole world and worlds beyond. We will know, too, things which are happening at the present time, and if we have a reason for it we can see the Akashic Record of the probabilities of the future.
  2. Telepathic communication with animals ; a most rewarding experience, because animals have a high intelligence not realised by humans.
  3. A knowledge of one’s past lives, and the past lives of other people. A knowledge obtained by methods other than incursions into the Akashic Record.
  4. Telepathic communion with those of equal spiritual stature, no matter in what part of the world they belong, and no matter if they be outside of this world.
  5. Knowledge of the time of probable death which enables us to make sure that our debts are paid, and our conscience is clear.
  6. Clairvoyance. An ability to see far distant places, to see happenings and the probabilities of happenings.
  7. Meditation enables one to control matter. There is a power of mind over matter, and when we can do that we can do astral travelling, because astral travelling is a simple thing indeed.

PRALAYA – CHU KỲ HOẠI KHÔNG

Các nhà khoa học mới chỉ vừa phát hiện ra những gì những người bình thường đã biết trong nhiều thế kỷ; con người và động vật phải ngủ sau một số giờ nhất định, nếu không thì sự sống không thể tiếp tục. Đây là điều mà khoa học phương Đông đã biết trong nhiều thế kỷ – toàn bộ Vũ trụ phải “ngủ” sau những khoảng thời gian nhất định.

Có những khoảng thời gian dài mà toàn bộ Vũ trụ đi ngủ, đó được gọi là Pralaya. Có những giai đoạn khác nhau, theo tín ngưỡng Hindu, và sau mỗi chu kỳ của những giai đoạn này, Vũ trụ sẽ đi ngủ trong khi những con người mới được “sinh ra” và những thế giới mới được kiến tạo. Những điều này có thể được quan sát trong Thư viện Akashic.

Scientists have just discovered what ordinary humans have known for centuries ; humans and animals must have sleep after a certain number of hours, otherwise life cannot continue. Here is something which Eastern science has known for centuries — the whole Universe has to “sleep” at certain intervals.

At long, long intervals the whole Universe sleeps, and that is called Pralaya. There are the various periods, according to Hindu belief, and after each cycle of those periods the Universe sleeps while fresh peoples are being “designed” and fresh worlds are planned. Such things can be observed in the Akashic Record

PRANA – KHÍ

Có hai ý nghĩa cho từ này. Đầu tiên là đây là một Luân xa kết nối với mao mạch tim. Prana kiểm soát trạng thái và sức khỏe của trái tim. Nó được kết nối với một loạt các dây thần kinh trong tim tạo ra một cú đẩy cho cơ tim, và do đó làm cho tim đập với một nhịp điệu nhất định.

Hình thức này của Prana có hào quang màu cam vàng và có xu hướng trở thành màu đỏ ở những người có ham muốn xác thịt mạnh mẽ thuộc bản chất thấp, chẳng hạn như đam mê tình dục hoặc ham ăn quá mức.

Nghĩa thứ hai của từ Prana khá thông dụng với một người bình thường. Nó liên quan tới hơi thở và việc kiểm soát hơi thở. Chúng ta sẽ không tập trung vào điều này ở đây, bởi vì trong phụ lục A ở cuối từ điển này, chúng ta sẽ có một loạt các bài tập thở rất an toàn, rất lành mạnh.

There are two meanings to this. The first is that this is a Chakra connected with the cardiac plexus. This Prana controls the state and health of the heart. It is connected to that bunch of nerves in the heart which gives a shock to the heart muscle, and thus causes the heart to beat with a certain rhythm.

This form of Prana shows in the aura as a yellow-orange colour which tends to become of a reddish hue in those who have very strong desires of the lower animal nature, such as excessive indulgence in sex or in food

The second Prana is rather better known to the average person. It is connected with breathing and with breath control. We will not deal with it here, because in Supplement A at the end of this Dictionary we shall have a series of very safe, very healthful, breathing exercises.

PRAYER – LỜI CẦU NGUYỆN

Những người theo đạo Thiên Chúa cầu nguyện vào mỗi Chủ nhật và quên đi lời cầu nguyện trong suốt những ngày còn lại của tuần, ấy vậy mà họ cười nhạo những người theo đạo Phật vì tụng niệm các câu thần chú. Lời cầu nguyện cũng là một câu thần chú, và một câu thần chú cũng là một lời cầu nguyện.

Mục đích của lời cầu nguyện là đánh thức vùng tiềm thức mạnh mẽ của một người, và làm cho một kẻ lười biếng hoạt động, khiến cho kẻ lười biếng đó trở nên bận rộn vào việc kích thích những phần của cơ thể hoặc tâm trí, những phần sẽ cho chúng ta sức mạnh để tự làm những gì ta cầu người khác làm.

Khi chúng ta cầu nguyện, thông điệp được truyền đạt cho người điều khiển con rối, chính là Chân Ngã của chúng ta, và nếu Chân Ngã nghĩ rằng những gì ta cầu nguyện là cần thiết để thực hiện những việc cần làm, thì ta có thể nhận được sự giúp đỡ cho ước muốn của mình.

Phần lớn mọi người được thấy là chỉ cầu nguyện cho tài sản vật chất và quyền lực, thay vì cầu nguyện cho lợi ích của người khác!

People pray every Sunday and forget about prayer for the rest of the week, and then Christians laugh at Buddhists for repeating mantras. A prayer is a mantra, a mantra is a prayer.

The purpose of prayer is to wake up one’s powerful subconscious, and make the lazy fellow work, make the lazy fellow get busy stimulating those parts of our body or mind which will give us the power to do ourselves what we pray that others will do.

When we pray the message is conveyed to our puppet master, our Overself, and if our Overself thinks that that for which we have prayed is essential for the task at hand, then we may get some help in realising our.

It has been observed that most people pray for material possessions and power, rather than pray for the good of others !

PROOF – BẰNG CHỨNG

Một sự thật đáng buồn là rất nhiều người cần bằng chứng cho mọi thứ. Làm thế nào để bạn biết rằng có một Thượng Đế? Câu trả lời là bạn không có cách nào để biết, không phải theo cách mà bạn có thể “chứng minh” cho một nhóm đối tượng có đầu óc vật chất. Bạn phải giữ niềm tin của mình vào Thượng đế đơn giản là một niềm tin, phải tin tưởng rằng có Thượng Đế, và bạn không thể xác thực được điều này chừng nào còn đang ở trong thân xác.

Làm thế nào để bạn biết rằng có “kiếp sau”? Làm thế nào để bạn biết rằng có một cõi trung giới, nơi chúng ta có thể gặp gỡ bạn bè và lên kế hoạch cho một kiếp sống tốt hơn? Chừng nào bạn còn chưa thể đi du hành thể vía một cách có ý thức, bạn phải có niềm tin. Những người đã đi sang “Phía bên kia” một cách có ý thức, và có thể nhớ lại hoàn toàn, không có đức tin; thay vào đó, họ có kiến thức, và họ nhận thức được về sự chắc chắn của điều mà trước đây chỉ là một niềm tin.

Thái độ của người Tây Tạng đối với “bằng chứng” có thể được nói theo cách này: Thứ gì có thật thì không cần bằng chứng. Thứ gì KHÔNG có thật thì không thể được chứng minh. Vì vậy, việc yêu cầu hoặc đưa ra bằng chứng là không đúng.

Một trong những điều khó khăn nhất mà chúng ta phải đương đầu là mong muốn chứng minh không nguôi. Liên tục đòi hỏi bằng chứng khiến chúng ta không thể tiến bộ. Những người có thể thực hiện ngoại cảm hiếm khi có thể làm điều này dưới điều kiện thử nghiệm khoa học, bởi vì bầu không khí của sự hồ nghi, ngờ vực và ghét bỏ ức chế những rung động cao hơn, những rung động cần thiết cho việc thực hiện ngoại cảm.

Những người được cho là điều tra viên hay tự phong là điều tra viên hiếm khi có những phẩm chất hay năng lực để tìm hiểu những điều huyền bí. Người ta không cần phải tin, cũng không cần phải bác bỏ. Tất cả những gì cần thiết là một tâm trí cởi mở, và một mong muốn, một mong muốn có thiện cảm để tìm hiểu mà không bị thiên lệch.

It is a sad fact that so many people demand proof of everything. How do you know that there is a God ? The answer is that you do not, not in terms that you could “prove” to a materially minded audience. You have to take your belief in a God as a belief, you have faith that there is, and you cannot let it go beyond that while you are in the flesh.

How do you know that there is a “next life” ? How do you know that there is an astral world where we can meet friends and prepare plans for a better life ? Unless you can do astral travelling consciously you must take that on faith also. People who have been to the “Other Side” at will, and remember completely, do not have faith ; instead, they have knowledge, they are aware of the certainty of that which previously was a matter of faith alone

The Tibetan attitude towards “proof” can be put in this way : That which is needs no proof. That which is NOT cannot be proved. Wherefore it is not correct to demand or to give proof.

One of the most difficult things we have to fight against is this continual desire for proof. Continually demanding proof makes it impossible for us to really progress. Those who can produce psychic manifestations can rarely do so under alleged scientific test conditions, because the general atmosphere of suspicion, disbelief, and dislike, inhibits the higher vibrations which are necessary to the realisation of such materializations

So-called, self-styled investigators rarely have the qualities or qualifications to investigate the occult. People do not have to believe, nor do they have to disbelieve. All that is required is an open mind, and a desire, a sympathetic desire, to investigate without being biased.

PSYCHOMETRY – CẢM THỊ

Một người “nhạy cảm” có thể cầm vào một đồ vật và nói khá nhiều về nó. Ví dụ: Một người nhạy cảm có thể nhặt một hòn đá trên bờ hồ hoặc bờ biển. Sau đó bằng cách ngồi xuống và để tâm trí trống rỗng, tiềm thức có thể kích hoạt một số giác quan đặc biệt để các ngón tay có thể truyền tải rung động đến não tạo thành hình ảnh. Tất cả sự sống là điện và từ tính, và bất cứ vật gì được chạm bởi một người luôn có dấu ấn của người đó trong tương lai. Nó giống như khi bạn chạm vào một miếng nam châm sắt; bạn sẽ thấy rằng bạn có một miếng sắt đã được từ tính hóa một phần. Một điện kế, hoặc thậm chí một la bàn từ tính thông thường, có thể phát hiện từ tính được truyền đến sắt bằng một tiếp xúc nhẹ với nam châm.

Tương tự, một người có khả năng cảm thị có thể chạm vào một hòn đá, hoặc một chiếc nhẫn, hoặc một mảnh quần áo, và có thể mô tả những cảnh trong quá khứ của đồ vật đó.

Một người như vậy không làm điều này để thu lợi cho mình, cũng không để trình diễn, mà chỉ giúp đỡ người khác.

A person who is “a sensitive” can finger an object and tell quite a lot about it. For example : A sensitive can pick up a stone on the shore of some lake or sea. Then by sitting down and letting the mind go blank, the sub-conscious can activate some para-normal senses so that the fingers can convey vibrations to the brain which form pictures. All life is electric and magnetic, and anything that has been touched by a person always has the mark of that person in future. It is like touching a piece of iron with a magnet ; you will find that you have partly magnetised the piece of iron. A galvanometer, or even an ordinary magnetic compass, can detect the magnetism imparted to the iron by the light touch of the magnet

In the same way, a person who can do psychometry can touch a stone, or a ring, or a piece of clothing, and can describe scenes in the past of that article.

Such a person does not do it for self-gain, nor as a stage trick, but only to help others.

PURGATORY – LUYỆN NGỤC

Đây không phải là địa ngục, nó chẳng có gì giống với địa ngục cả. Đúng hơn, nó giống như Hành lang ký ức trong trung giới.

Ta lấy ví dụ một ấm trà bạc. Khi đã sử dụng nó chút ít, ấm trà bạc sẽ có vết ố bên trong, và một vài vết bên ngoài. Nếu bạn nghĩ đến việc bán nó, hoặc biến nó thành một món quà cưới, bạn phải thực hiện các bước để loại bỏ vết bẩn.

Theo cùng một cách, khi con người hay con vật rời khỏi thế giới này, họ sẽ sống một thời gian rất ngắn trong “luyện ngục”, nơi linh hồn, hoặc Chân Ngã, thấy những sai lầm trong kiếp sống vừa kết thúc, và thường sẽ có một vài người phải đỏ mặt trong những dịp như vậy! Luyện ngục  không phải là một nơi để trừng phạt, nó không phải là nhà tù địa phương, nó không phải là địa ngục, và cũng chẳng hề có quỷ sứ khoái trá châm chọc bạn bằng đinh ba nóng đỏ. Luyện ngục chỉ đơn thuần là nơi bạn phải đối mặt với thực tế rằng mặc dù trên trái đất bạn có vô số tiền, v.v … và mọi người phải sợ bạn, mọi thứ ở đây khá khác, bạn đâu thể mang theo tiền của mình.

Không có gì đáng sợ trong luyện ngục. Thực tế, đó là một trải nghiệm khá dễ chịu khi được thoát khỏi những cáu bẩn thu nhặt ở cuộc sống trên Trái đất.

This is not hell, it is nothing like hell. It is more like the Hall of Memories in the astral world.

You may have a silver teapot. With a bit of use that silver teapot will have got tannin stains inside, and a few marks outside. Well, if you think of selling the thing, or giving it away for a wedding present, you take steps to remove the dirt.

In the same way, when some human or animal leaves this world there is a very short stay in “purgatory” where the soul, or Overself, sees the mistakes committed in the life just ended, and there are some astral faces which go very red on such occasions ! This purgatory is not a punishment centre, it is not the local jail, it is not hell, and there are no devils who gleefully prod you with red-hot toasting forks. Purgatory is merely a place where you shed some of your conceit, some of your illusions, and where you face up to the fact that although on Earth you had loads of money, etc., and people were afraid of you, here it is quite different, you did not bring your money with you.

There is nothing to be afraid of in purgatory. It is quite a pleasant experience, really, to get rid of the dross picked up by living on Earth.

Wikipedia: Jeanne d’Arc là một nữ anh hùng người Pháp, đã giải phóng nước Pháp khỏi sự thống trị của quân Anh trong giai đoạn cuối cuộc Chiến tranh trăm năm. Sau đó, bà bị phe quý tộc Pháp thân Anh hãm hại, kết tội là phù thuỷ và thiêu sống khi mới 19 tuổi.

Biên tập: Cộng đồng thiền Việt Nam


Có thể bạn quan tâm

Xem tất cả

Đăng ký hướng dẫn Thiền cơ bản

Loading...
Logo-vmc
TRUNG TÂM THIỀN ĐỊNH:
- Số 116 Trần Vỹ, Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội
Chị Khánh:  

‎0981956875

Chị Thủy:  

‎0981956820

Facebook:

facebook.com/congdongthienVietNam

TIN TỨC NỔI BẬT

© 2024 Copyright by IT AUM