Loading...
Cộng đồng thiền Việt Nam

Chi hội phát triển cộng đồng thiền Việt Nam

Cộng đồng thiền Việt Nam

image-alt-text

Chương VII: Chuyến Bay Đau Thương – Bác Sĩ Đến Từ Lhasa – Lobsang Rampa

Chương VII: Chuyến Bay Đau Thương – Bác Sĩ Đến Từ Lhasa – Lobsang Rampa

16:56 08/01/2021

Con thuyền nhẹ nhàng cập bến trên sông Tô Châu. Những người phu khuân vác Trung Quốc ùa lên thuyền, hò hét và khua chân múa tay. Hành lí của chúng tôi nhanh chóng được chuyển đi, và chúng tôi leo lên một chiếc xe kéo, được chở đi dọc bờ đê vào thành phố, tới ngôi chùa nơi tôi sẽ ở trong thời gian tới. Po Ku và tôi lặng yên giữa không gian bát nháo. Thượng Hải là một nơi thực sự ồn ào và bận bịu. Bận bịu hơn thường ngày vì người Nhật đang cố gắng biến nơi đây thành căn cứ cho một cuộc tấn công khốc liệt, và trong thời gian qua họ đã săn lùng những người ngoại quốc muốn vượt qua cầu Lư Câu. Họ đang gây ra tình trạng vô cùng rối loạn với việc truy lùng triệt để này. Người phương Tây không hiểu được rằng người Nhật cũng như người Trung Quốc không thấy hổ thẹn về cơ thể con người, mà chỉ thấy hổ thẹn về những suy nghĩ của con người về cơ thể, và khi người phương Tây bị người Nhật khám xét, họ cho đó là một sự sỉ nhục có chủ tâm, nhưng sự thật thì không phải vậy.

Trong một khoảng thời gian, tôi đã có một phòng mạch riêng ở Thượng Hải, nhưng với người phương Đông “thời gian” không có nhiều ý nghĩa. Chúng tôi không nói năm này năm kia bởi vì toàn bộ thời gian đều là một. Tôi có một phòng mạch riêng, chữa bệnh và tư vấn tâm lý. Tôi có bệnh nhân ở cả phòng mạch và bệnh viện. Không có thời gian rỗi rãi. Những lúc không chữa bệnh, tôi bận bịu với việc nghiên cứu chuyên sâu về hàng không và lý thuyết bay.

Khi màn đêm buông xuống, tôi bay nhiều giờ phía trên thành phố lấp lánh ánh đèn, và trên những vùng quê với ánh sáng dẫn đường yếu ớt từ những ngôi nhà tranh của nông dân.

GENTLY the boat slid to a halt in Soochow Creek. Chinese coolies swarmed aboard, yelling madly and gesticulating. Quickly our goods were removed, and we got in a rickshaw and were conveyed swiftly along the Bund to the Chinese city to a temple at which I was to stay for the time being. Po Ku and I were silent in a world of babel. Shanghai was a very noisy place indeed, and a busy one too. Busier than normal because the Japanese were trying to make grounds for a fierce attack, and for some time past they had been searching foreign residents who wanted to cross the Marco Polo Bridge. They were causing extreme embarrassment by the thoroughness of their search. Western people could not understand that the Japanese or the Chinese either, could see no shame in the human body, but only in people’s thoughts about the human body, and when Westerners were being searched by the Japanese they thought it was meant as a deliberate insult, which it was not.

For a time I had a private practice in Shanghai, but to the Easterner “time” is of no account. We do not say such-and-such a year, for all times flow into one. I had a private practice, doing medical and psychological work. There were patients to see in my office, and in the hospitals. Of leisure there was none. Any time free from medical work was taken up by intensive studies of navigation; and the theory of flight. Long hours after nightfall I flew above the twinkling lights of the city, and out over the countryside with only the faintest glimmers from peasants’ cottages to guide me.

Năm tháng thấm thoát trôi, tôi quá bận rộn để bận tâm về tháng ngày. Hội Đồng thành phố Thượng Hải biết rõ tôi và tận dụng tối đa sự giúp đỡ chuyên ngành của tôi.

Tôi có một người bạn tốt ở Nga trắng[1]. Bogomoloff là một người đã trốn thoát khỏi Mát-xcơ-va trong thời kỳ cách mạng. Ông đã mất tất cả sản nghiệp trong thời gian bi thảm đó, giờ đây ông đang làm việc cho Hội Đồng thành phố. Ông là người da trắng đầu tiên mà tôi biết và tôi biết ông rất rõ, một người đàn ông đích thực.

Ông có thể thấy rõ rằng Thượng Hải không đủ sức phòng thủ chống lại sự xâm lược. Cũng như chúng tôi, ông có thể thấy trước những điều khủng khiếp đang sắp sửa ập đến.

Ngày 7 tháng 7 năm 1937 đã xảy ra một sự kiện tại cầu Lư Câu. Vụ việc này đã được viết đến quá nhiều, nên tôi sẽ không nhắc lại nữa. Nó này chỉ đáng chú ý vì trên thực tế nó là xuất phát điểm của cuộc chiến tranh Trung Nhật. Giờ đây mọi thứ đều dựa trên cơ sở chiến tranh. Thời kỳ khó khăn đã bao trùm lên chúng tôi. Người Nhật hung hăng và tàn bạo.  Nhiều thương nhân nước ngoài vàTrung Quốc đã nhìn thấy trước những khó khăn đang tới, họ đã chuyển gia đình và tài sản tới những vùng khác của Trung Quốc, những vùng sâu trong lục địa như Trùng Khánh. Nhưng những người nông dân ở các vùng ngoại ô Thượng Hải lại đổ xô vào thành phố, nghĩ rằng, vì lý do nào đó, họ sẽ an toàn, rõ ràng là họ tin vào sự an toàn ở số đông.

The years rolled on unheeded, I was much too busy to bother about dates. The Shanghai Municipal Council knew me well and made full use of my professional services. I had a good friend in a White Russian. Bogomoloff was one who had escaped from Moscow during the revolution. He had lost all in that tragic time, and now he was employed by the Municipal Council. He was the first white man whom I had been able to know and I knew him thoroughly—a man indeed.

He could see quite clearly that Shanghai had no defenses against aggression. Like us, he could foresee the horrors that were to come.

On the 7th July, 1937, there was an incident at the Marco Polo Bridge. The incident has been written about far too much, and I am not going to keep on repeating it. The incident was notable only for being the actual starting-point of war between China and Japan. Now things were on a war-time basis. Hard times were upon us. The Japanese were aggressive, truculent. Many of the foreign traders, and the Chinese in particular, had foreseen the coming trouble and they had moved themselves, their families and their goods, to various parts of China to the inland parts such as Chungking. But peasants in the outlying districts of Shanghai had come pouring into the city, thinking, for some reason, they would be safe, apparently believing in safety in numbers.

Trên khắp các con đường trong thành phố, ngày cũng như đêm, tràn ngập các xe tải của Lữ đoàn Quốc tể, chở đầy lính đánh thuê từ nhiều quốc gia khác nhau được giao nhiệm vụ giữ gìn hòa bình trong thành phố. Tất cả bọn chúng đều là những tên giết người được tuyển dụng vì tính hung ác của mình. Nếu có bất kỳ sự cố nào trái ý, chúng sẽ dùng bạo lực mà không cảnh báo, cũng không cần động cơ hay nguyên cớ, chúng sẽ lấy ngay súng máy, súng trường, súng lục giết chết những người dân vô tội, trong khi chẳng làm gì để ngăn chặn tội phạm. Ở Thượng Hải, chúng tôi thường nói rằng sống với người Nhật còn dễ chịu hơn nhiều so với việc phải sống chung với những tên mọi rợ mặt đỏ, đó là cách chúng tôi gọi một số thành viên của Lực lượng Cảnh sát Quốc tế.

Trong một thời gian tôi chuyên chữa bệnh cho phụ nữ, điều trị cho họ như một bác sĩ điều trị và bác sĩ phẫu thuật, và tôi đã có một phòng mạch có tiếng ở Thượng Hải. Những kinh nghiệm mà tôi có trong những ngày trước chiến tranh này sẽ có ích cho tôi về sau.

Through the streets of the city, by day and by night, poured lorries of the International Brigade, loaded with mercenaries of many different countries, charged with keeping peace in the city itself. All too often they were just plain murderers who had been recruited for their brutality. If there had been any incident at all which they did not like, they would come out in force, and without any warning, without any provocation or cause, they would loosen off their machine guns, rifles, and their revolvers, killing harmless and innocent civilians, and more often than not doing nothing at all against guilty persons. We used to say in Shanghai that it was far better to deal with the Japanese than with the red-faced barbarians, as we called certain members of the International Police Force.

For some time I had been specializing with women, treating them as a physician and as a surgeon, and I had a very satisfactory practice indeed in Shanghai. The experience I gained in those pre-active war days was going to stand me in good stead later.

Các vụ việc xảy ra ngày càng thường xuyên. Báo chí liên tục đưa tin về nỗi kinh hoàng đến từ cuộc xâm lược của Nhật Bản. Binh lính và hàng hóa Nhật đổ bộ ồ ạt vào đất Trung Quốc. Chúng ngược đãi nông dân, cướp giật, hãm hiếp như chúng vẫn thường làm.

Vào cuối năm 1938, kẻ thù đã ở vùng ngoại ô thành phố; lực lượng được trang bị thiếu thốn của Trung Quốc đã chiến đấu thực sự dũng cảm. Họ đã chiến đấu cho đến chết, nhưng lực lượng của họ quá ít để đẩy lùi quân Nhật. Chỉ những người lính chiến đấu bảo vệ quê hương mới có thể chiến đấu như họ đã làm, nhưng họ bị áp đảo bởi sự chênh lệch số lượng.

Thượng Hải đã tuyên bố là một thành phố mở với hy vọng rằng người Nhật sẽ tôn trọng các công ước và không ném bom một địa điểm lịch sử. Thành phố hoàn toàn không được phòng thủ, không có súng, không có bất cứ loại vũ khí nào. Các lực lượng quân sự đã được rút đi. Thành phố tràn ngập người tị nạn. Dân cư cũ hầu như đã rời đi hết. Các trường đại học, các trung tâm học tập và văn hóa, các công ty lớn, các ngân hàng, và những tổ chức khác đã được chuyển đến những nơi như Trùng Khánh và những vùng xa xôi khác. Thế chỗ họ giờ đây là những người tị nạn, người dân của tất cả các dân tộc và các tầng lớp, đang chạy trốn quân Nhật và nghĩ rằng số đông sẽ đem lại sự an toàn.

Các cuộc không kích đang trở nên ngày càng thường xuyên, nhưng người dân cũng đang dần trở nên cứng rắn hơn và quen với điều đó. Rồi một đêm người Nhật ném bom thành phố. Bất cứ chiếc máy bay nào có thể bay trên không đều cất cánh, thậm chí cả những chiếc máy bay chiến đấu cũng được gắn bom, và các phi công cũng có lựu đạn trong buồng lái để quăng qua cửa bên. Bầu trời đêm dày đặc những chiếc máy bay, xếp theo đội hình ngang qua một thành phố không được phòng vệ như một đàn châu chấu xóa sạch mọi thứ trên đường chúng đi qua. Bom được thả khắp mọi nơi. Thành phố chìm trong biển lửa, mà không có bất cứ sự phòng vệ nào; chúng tôi không có gì để bảo vệ chính mình.

Incidents were becoming more and more frequent. Reports were coming in of the horrors of the Japanese invasion. Japanese troops and supplies were absolutely pouring into the country, into China. They were ill-treating the peasants, robbing, raping, as they always did. At the end of 1938 the enemy were on the outskirts of the city; the ill-armed Chinese forces fought truly valiantly. They fought to the death. Few indeed there were to be driven back by the Japanese hordes. The Chinese fought as only those who are defending their homeland could fight, but they were overwhelmed by sheer weight of numbers. Shanghai was declared an open city in the hope that the Japanese would respect the conventions and not bomb the historic place. The city was quite undefended, there were no guns, no weapons of any kind. The military forces were withdrawn. The city was crammed with refugees. The old population had mostly gone. The universities, centres of learning and culture, the big firms, the banks, and others, they had been moved to places like Chungking and to other remote districts. But in their place had come refugees, people of all nations and stations, fleeing from the Japanese, thinking that there was safety in numbers. Air raids were becoming more and more frequent, but people were becoming a little hardened to them, a little used to them. Then one night the Japanese really bombed the city. Every plane they could get in the air took off, even fighter planes had bombs attached to them, and the pilots also had grenades in the cockpits to toss over the sides. The night sky came thick with planes, flying in formation across a defenceless city, flying like a swarm of locusts, and like a swarm of locusts they cleared everything in their path. Bombs were dropping everywhere, indiscriminately. The city was a sea of flames, and there was no defense; we had nothing with which to defend ourselves.

Khoảng nửa đêm tôi đang đi dọc con đường trong lúc hỗn loạn nhất. Tôi đã chăm sóc một ca bệnh, một phụ nữ đang hấp hối. Lúc này kim loại đang trút xuống như mưa, tôi tự hỏi liệu có nơi nào để trú ẩn. Đột nhiên có một tiếng rít nhẹ, lớn dần thành tiếng rên rỉ, và sau đó là tiếng bom rơi rợn người. Có cảm giác như mọi âm thanh và toàn bộ cuộc sống đang dừng lại. Một cảm giác hư vô và hoàn toàn trống rỗng. Tôi bị đánh bay bởi một bàn tay khổng lồ, ném lên không trung, và quăng đi một cách dữ dội. Trong vài phút tôi nằm choáng váng, thở một cách khó nhọc, tự hỏi có phải mình đã chết và đang chờ đợi để tiếp tục cuộc hành trình tới một thế giới khác. Run rẩy, tôi gượng đứng lên, và nhìn xung quanh trong sự sửng sốt tột cùng. Tôi vừa đi bộ trên con đường giữa hai dãy nhà cao tầng; còn lúc này, tôi đang đứng trên một mảnh đất hoang vắng không có bất kỳ ngôi nhà nào ở cả hai bên, chỉ còn lại đống gạch vụn tan hoang, những đám bụi mỏng tung tóe máu và những mẩu xác người. Những ngôi nhà từng nằm san sát nhau trước khi những quả bom nặng trút xuống. Tôi đã ở gần đến mức ở ngay rìa vùng bị tấn công, và vì lý do lạ lùng nào đó mà tôi đã không nghe thấy tiếng nổ cũng như không bị tổn hại. Cuộc tàn sát đơn giản là khủng khiếp.

Vào buổi sáng, chúng tôi chất các thây người thành đống cao và đốt chúng, đốt để ngăn ngừa sự lây lan của bệnh dịch, bởi vì dưới cái nóng của mặt trời, các thây người đã bắt đầu phân hủy, tái xanh và trương phình. Trong nhiều ngày chúng tôi đào bới đống đổ nát để giải cứu những người có thể còn sống sót và để tìm những xác chết, đốt chúng ngay tại chỗ nhằm bảo vệ thành phố khỏi dịch bệnh.

Around midnight I was walking down a road at the height of the uproar. I had been attending a case, a dying woman. Now metal was raining down, and I wondered where to shelter. Suddenly there was a faint whistle, growing to a whine, and then to the blood-curdling screech of a falling bomb. There was a sensation as if all sound, as if all life, had stopped. There was an impression of nothingness, of utter blank. I was picked up as if by a giant hand, twirled about in the air, tossed up in the air, and flung violently. For some minutes I lay half stunned, with hardly any breath in me, wondering if I were already dead and waiting to continue my journey to the other world. Shakily I picked myself up, and stared about me in absolute stupefaction. I had been walking down a road between two rows of tall houses; now I was standing on a desolate plain with no houses at all on either side, just piles of shattered rubble, piles of thin dust bespattered by blood and parts of human bodies. The houses had been crowded and the heavy bomb had dropped. It had been so close to me that I had been in the partial vacuum, and for some extraordinary reason I had heard no sound, and had come to no harm. The carnage was simply appalling. In the morning we piled the bodies house high and burned them, burned them to prevent the spread of plague, because under the hot sun the bodies were already decomposing, turning green and swelling. For days we dug beneath the rubble, trying to save any that might be alive, digging out those who were dead, and burning them on the spot in an attempt to save the city from disease.

Chiều muộn ngày hôm đó tôi đang ở trong một khu phố cổ của Thượng Hải. Tôi đi ngang qua một cây cầu bắc qua con kênh. Bên phải tôi, dưới các gian hàng trên phố là những chiêm tinh gia và thầy bói người Trung Quốc, đang ngồi trong quầy của mình, tiên đoán số mệnh cho những khách hàng nóng lòng muốn biết liệu họ có sống sót qua cuộc chiến, và liệu tình hình có cải thiện. Tôi nhìn họ, cảm thấy tức cười khi nghĩ rằng họ thực sự tin vào những điều mà những kẻ làm tiền này đang nói.

Các thầy bói đang giải nghĩa những ký tự bao quanh tên của khách hàng trên một tấm bảng, nói với họ về kết quả của cuộc chiến tranh, và nói với những người phụ nữ về sự an toàn của chồng con họ. Xa hơn một chút là những nhà chiêm tinh khác – có lẽ đang nghỉ ngơi khỏi công việc chuyên môn của họ! – và làm việc của một người viết thuê công cộng; họ đang viết những bức thư cho khách để gửi tới những vùng khác nhau của Trung Quốc, thông báo tin tức, và cũng có thể là việc gia đình. Họ sống một cuộc sống bấp bênh bằng cách viết thuê cho những người không biết viết, và họ làm điều đó ngay nơi công cộng; bất cứ ai đứng cạnh đều có thể nghe và biết hết chuyện riêng của gia đình. Ở Trung Quốc không có sự riêng tư. Người viết thuê trên phố thường đọc lớn bằng giọng rất to về những gì họ đang viết, để các khách hàng tương lai có thể thấy ông ta đã viết lách hay ho như thế nào.

Tôi tiếp tục đi bộ tới bệnh viện nơi tôi đang chuẩn bị thực hiện một số ca mổ. Tôi đi ngang qua gian hàng của những người bán hương trầm, qua các cửa hiệu bán sách cũ dường như luôn luôn tụ họp bên bờ sông, và giống như tại hầu hết các thành phố, họ bày các sản phẩm của mình ngay tại mép nước. Xa hơn nữa là những người bán hương và đồ thờ, chẳng hạn như tượng Thần Tài và Phật Bà Quân Thế Âm, vị đầu tiên là vị Thánh của sự sung túc và vị thứ hai là vị Thánh của Lòng Từ Bi.

Rồi tôi đến bệnh viện và làm những công việc của mình. Sau đó, tôi trở về cũng trên con đường đó. Nhưng người Nhật đã dội bom xuống thành phố. Chẳng còn những gian hàng và cửa hiệu. Chẳng còn những người bán hàng với đồ lễ, hay hương trầm, vì họ cùng với hàng hóa của học đã trở thành cát bụi. Lửa đang thiêu rụi, các tòa nhà đang đổ nát, vậy là cát bụi lại trở về với cát bụi.

Late one afternoon I was in an old part of Shanghai. I had just crossed a slanting bridge astraddle a canal. To my right, under a street booth, were some Chinese astrologers and fortune-tellers, sitting at their counters, reading the future for avid customers who were anxious to know if they would survive the war, and if conditions would improve. I looked at them, mildly amused to think that they really believed what these moneymakers were telling them. The fortune-tellers were going by rote through the characters which surrounded the customer’s name on a board, telling them of the outcome of the war, telling the women of the safety of their men. A little further on other astrologers—perhaps taking a rest from their professional duties!—were acting as public scribes; they were writing letters for people to send to other parts of China, giving the news, possibly, of family affairs. They made a precarious living writing for those who could not write, and they did it in the open; anyone who cared to stop could listen and know about the private business of the family. In China there is no privacy. The street scribe used to shout out in a very loud voice what he was writing, so that prospective customers should understand how beautifully he phrased his letters. I continued my walk to a hospital where I was going to do some operations. I went on past the booth of the sellers of incense, past the shops of the second-hand booksellers, who always seem to congregate on the waterside, and who, as in most cities, displayed their wares at the edge of a river. Further on were the vendors of incense and of temple objects, such as the statues of the Gods Ho Tai and of Kuan Yin; the first being the God of Good Living, and the second being the Goddess of Compassion. I went on to the hospital, and did my allotted tasks. Later I returned by the same road. The Japanese had been over with their bombers; bombs had dropped. No longer were there booths or bookshops. No longer were there sellers of objects, or of incense, for they and their goods had returned to dust. Fires were raging, buildings were crumbling, so again it was ashes to ashes and dust to dust.

Nhưng Po Ku và tôi còn có nhiều việc khác để làm ngoài việc ở lại Thượng Hải. Chúng tôi đang nghiên cứu để thành lập một dịch vụ cứu thương bằng hàng không theo chỉ thị trực tiếp từ Tổng tư lệnh Tưởng Giới Thạch. Tôi nhớ rõ một chuyến bay đặc biệt trong số các chuyến bay này. Hôm đó trời giá lạnh, những đám mây trắng xốp lững thững phía trên đầu. Đâu đó trên bầu trời văng vẳng đến tiếng đều đều RẦM – RẦM– RẦM của bom Nhật. Thỉnh thoảng có tiếng vo ve xa tít của động cơ máy bay, giống như âm thanh của đàn ong trong ngày hè nóng nực.

Con đường gồ ghề thô ráp nơi chúng tôi ngồi đã chịu đựng sức nặng của rất nhiều bước chân ngày hôm đó, cũng như bao ngày khác. Những người nông dân lê bước, cố gắng chạy thoát sự tàn bạo điên rồ của quân Nhật. Những lão nông đã sống gần hết cuộc đời đang đẩy những chiếc xe cút kít một bánh với tất cả tài sản của họ trên đó. Những người cúi gầm mặt xuống đất, mang theo trên lưng gần như toàn bộ những gì họ có. Đội quân được trang bị nghèo nàn đi theo hướng ngược lại, với các vật dụng ít ỏi chất trên chiếc xe bò kéo. Họ là những người đàn ông đang mù quáng đi tới cái chết, cố gắng ngăn chặn sự tiến công tàn bạo, cố gắng bảo vệ đất nước và quê nhà của họ. Họ tiếp tục đi mà không biết tại sao mình phải đi tiếp, không biết điều gì đã gây ra cuộc chiến.

Chúng tôi luồn xuống bên dưới cánh của một chiếc máy bay ba động cơ cũ kỹ, một chiếc máy bay đã tàn tạ trước khi đến được với bàn tay háo hức và nhiệt tình của chúng tôi. Sơn đã tróc ra từng mảng từ đôi cánh bằng vải bạt. Khung gầm đã được sửa lại và được gia cố bằng thanh tre, và cái nạng đuôi được làm lại bằng một mẩu thừa của một cái lò xo ô tô đã gẫy. Nhưng Abie Già Cả, như cách mà chúng tôi gọi nó, chưa bao giờ làm chúng tôi thất vọng. Động cơ của nó đôi khi dừng lại, đúng vậy, nhưng thường chỉ bị dừng một động cơ. Nó là máy bay cánh cao của một hãng danh tiếng của Mỹ. Nó có thân gỗ phủ vải bạt, vì khí động học là một thuật ngữ xa lạ khi nó được chế tạo. Tốc độ khiêm tốn gần hai trăm cây số một giờ, có cảm giác nhanh hơn ít nhất hai lần. Vải gõ như đánh trống, xà dọc kêu cọt kẹt, ống xả mở làm tăng thêm tiếng ồn ào.

But Po Ku and I had other things to do besides stay in Shanghai. We were going to investigate the possibility of starting an air ambulance service on the direct orders of General Chiang Kai-Shek. I well remember one in particular of these flights. The day was chilly, white fleecy clouds laced overhead. From somewhere over the skyline came the monotonous CRUMP-CRUMP-CRUMP of Japanese bombs. Occasionally there was the far-off drone of aero engines, like the sounds of bees on a hot summer’s day. The rough rugged road beside which we sat had borne the weight of many feet that day, and for many days past. Peasants trudged by in an attempt to escape from the senseless cruelty of the power-mad Japanese. Old peasants almost at the end of their life-span, pushing along one-wheeled barrows with all their worldly possessions upon them. Peasants bowed down almost to the ground, carrying on their backs almost all they had. Ill-armed troops were going the other way, with scanty equipment loaded on to ox-carts. They were men going blindly to their death, trying to stop the ruthless advance, trying to protect their country, their homes. Going on blindly not knowing why they had to go on, not knowing what caused the war.

We crouched beneath the wing of an old tri-motored plane, an old plane that had already been worn out before it reached our eager and uncritical hands. Dope was peeling from the canvas-covered wings. The wide undercarriage had been repaired and strengthened with split bamboos, and the tail skid was re-shod with the broken end of a car spring. Old Abie, as we called her, had never failed us yet. Her engines sometimes stopped, it is true, but only one at a time. She was a high-winged monoplane of a rather famous American make. She had a wooden fabric-covered body, and streamlining was a term unknown when she was made. The modest speed of 120 miles an hour felt at least twice as fast. Fabric drummed, spars creaked and protested, and the wide open exhaust added to the clamour.

Ngày trước nó từng được sơn pha màu trắng với chữ thập đỏ khổng lồ bên thân và trên cánh. Giờ đây nó đã bị xây xước và phai màu. Dầu động cơ bổ sung thêm những vết gỉ ngả vàng làm cho nó trông như một pho tượng đá cổ xưa của Trung Quốc. Xăng tràn bị tạt ngược góp thêm những màu sắc khác, trong khi những miếng vá to nhỏ được thêm vào theo thời gian đã tạo nên một diện mạo lạ lùng cho chiếc máy bay cũ rích.

Lúc này tiếng ồn ào của bom đạn đã lắng xuống. Một cuộc tấn công nữa của quân Nhật đã kết thúc trong khi công việc của chúng tôi chỉ mới bắt đầu.

Chúng tôi kiểm tra lại một lần nữa những thiết bị ít ỏi của mình; cưa, hai chiếc, một lớn, một nhỏ và vát nhọn; dao, bốn con các loại. Một trong số đó là dao phay thái thịt, một con là dao dùng cho việc sửa ảnh. Hai con khác là dao mổ đích thực.

Kẹp, một vài cái. Hai ống tiêm với những chiếc kim cùn ghê gớm. Một ống tiêm dùng để hút chất lỏng hay khí cùng với ống cao su, và một chiếc đèn pin cỡ trung bình. Những chiếc dây đai, phải, chắc chắn chúng tôi sẽ cần chúng. Khi không có thuốc gây tê chúng tôi thường phải buộc bệnh nhân lại.

Đến lượt Po Ku lái máy bay ngày hôm nay, còn tôi ngồi phía sau và canh chừng máy bay chiến đấu của quân Nhật. Phương tiện liên lạc xa xỉ không dành cho chúng tôi. Chúng tôi có một sợi dây dài, một đầu nối với phi công, đầu kia nối người quan sát, theo quy ước, chúng tôi sẽ giật mạnh sợi dây để báo hiệu khi cần.

A long time ago she had been doped white with huge red crosses on her side and wings. Now she was sadly streaked and marred. Oil from the engines had added a rich ivory-yellow patina making her look like an old Chinese carving. Petrol overflowing and blowing back contributed other hues, while the various patches added from time to time gave quite a bizarre appearance to the old plane.

Now the racket of crumps had died down. Another Japanese raid was over, and our work was just starting. Once again we checked our meager equipment; saws, two, one large and one small and pointed; knives, assorted, four. One of them was an ex-butcher’s carver, one was a photographic retouching knife. The other two were authentic scalpels.

Forceps, few in number. Two hypodermic syringes with woefully blunt needles. One aspirating syringe with rubber tubing, and medium trochar. Straps, yes, we must be very sure of them. With no anesthetics we often had to strap our patients down.

It was Po Ku’s turn to fly today, and mine to sit in the back and watch for Japanese fighters. Not for us the luxury of an intercom. We had a length of string, one end tied to the pilot, the other jerked by the observer in a crude code.

 

Thận trọng tôi quay cánh quạt bởi vì Abie thường khởi động rất đột ngột. Lần lượt từng động cơ nổ máy, nhả ra một cụm khói đen của dầu, và thức giấc một cách ồn ào. Chúng nhanh chóng ấm lên và ổn định với tiếng gầm đều đặn. Tôi trèo vào trong máy bay, đi tới phần thân sau nơi chúng tôi đã làm một cái cửa sổ giữa lớp vải bạt để quan sát: Sợi dây giật mạnh hai cú và Po Ku được thông báo rằng tôi đã vào vị trí an toàn, ngồi xổm trên sàn, bị ép và nhồi nhét giữa các thanh chống. Tiếng gầm của động cơ tăng lên, toàn bộ máy bay rung chuyển, rồi di chuyển xuống cánh đồng. Có một tiếng răng rắc ở phần chân chống, và tiếng cọt kẹt của khung gỗ khi di chuyển. Đuôi máy bay nhấp nhô và nhún nhảy khi chúng tôi va vào những luống đất.

Tôi bị sóc, nảy từ sàn tới trần máy bay. Tôi giữ người chặt hơn nữa cảm thấy mình giống như một hạt đậu bị ép trong vỏ. Với tiếng uỵch và tiếng loảng xoảng cuối cùng, chiếc máy bay già nua cất cánh lên không trung, và tiếng ồn giảm bớt khi động cơ được giảm ga. Một cú chúi xuống và chệch hướng dữ dội khi chúng tôi va phải luồng không khí đi lên phía trên tán cây, và mặt tôi gần như bị ấn ra ngoài cửa sổ quan sát. Những cái giật dây thật mạnh từ Po Ku nghĩa là “Chà, chúng ta đã thành công. Cậu có còn ở đó không?” Những cái giật dây trả lời từ tôi biểu cảm hết mức có thể để thể hiện nhận định của tôi trước pha cất cánh của anh ta.

Warily I swung the propellers, for Abie had a strong backfire. One by one the engines coughed, spat a gout of oily black smoke, and awoke to strident life. Soon they warmed and settled down to a fairly rhythmic roar. I climbed aboard, and made my way to the stern where we had made an observation window in the fabric. Two yanks of the cord and Po Ku was informed that I was safe in position, squatting on the floor, forced in between the struts, crammed. The engine roar increased, and the whole plane shuddered, and moved away down the field. There was a rumbling scrunch of the landing gear, and the creak of twisting woodwork. The tail bobbed, and dipped as we hit ridges. I was bounced from floor to roof. I settled myself even more tightly because I felt like a pea in a pod. With a final thud and clatter the old plane climbed into the air, and the noise became less as the engines were throttled back. A vicious yaw and dip as we hit raising air just clear of the trees, and my face was nearly forced through the observation window. Violent little jerks on the string from Po Ku meaning, “Well, we’ve made it once again. Are you still there?” My answering jerks as expressive as I could make them, indicating what I thought of his take-off.

Po Ku có thể nhìn thấy phía trước mặt, còn tôi chỉ thấy những gì chúng tôi vừa bỏ lại đằng sau. Lúc này chúng tôi đang đi tới một ngôi làng ở huyện Wuhu nơi vừa bị tấn công nặng nề, có nhiều, rất nhiều thương vong, và rất ít sự hỗ trợ tại chỗ. Chúng tôi luôn thay phiên nhau lái máy bay, và làm công việc quan sát. Abie có quá nhiều điểm mù, và các máy bay chiến đấu của quân Nhật lại rất nhanh. Tốc độ của chúng thường cứu chúng tôi. Chúng tôi có thể bay chậm tới mức chỉ tám mươi cây số một giờ khi không chở nặng, và phi công Nhật trung bình thường không đủ kỹ năng để bắn. Chúng tôi thường nói rằng chúng tôi an toàn hơn khi ở ngay trước mắt chúng, bởi vì chúng luôn bỏ qua những gì ngay trước mũi mình!

Tôi duy trì sự canh phòng nghiêm ngặt, cảnh giác với những “đốm máu” đáng ghét, đấy là từ thích hợp để gọi máy bay Nhật. Dòng Hoàng Hà đang chảy bên dưới đuôi máy bay của chúng tôi. Sợi dây giật ba lần. “Chúng ta đang hạ cánh,” Po Ku báo hiệu. Đuôi máy bay ngóc lên, tiếng gầm của động cơ đã ngưng và được thay thế bằng tiếng “bấc bấc, bấc bấc” dễ chịu khi cánh quạt đang từ từ chuyển hướng. Chúng tôi lướt xuống với động cơ đã tăng ga trở lại. Những tiếng cọt kẹt từ bánh lái khi chúng tôi rẽ sang một chút để điều chỉnh hướng bay. Tiếng đập đen đét và phần phật từ vải bạt bên ngoài khi nó run lên trong cơn gió lộng. Một tiếng nổ ngắn đột ngột từ động cơ, những tiếng ầm ầm và loảng xoảng chói tai khi chúng tôi hạ cánh, rồi gầm lên lần nữa từ luống đất này sang luống khác. Sau đó là thời điểm đáng ghét nhất của người quan sát bất hạnh bị kẹt ở đuôi máy bay; thời điểm khi mà đuôi hạ xuống và má phanh kim loại cày xuyên qua lớp đất khô nẻ, làm dấy lên những đám mây bụi đến nghẹt thở, bụi đất chứa cả phân người, thứ mà người Trung Quốc sử dụng để bón ruộng.

 

Po Ku could see where we were going. I could see what we had just left. This time we were going to a village in the Wuhu district where there had been heavy raids, and many, many casualties, and no assistance on the spot. We always took turns flying the plane, and acting as observer. Abie had many blind spots, and the Japanese fighters were very fast. Often their speed saved us. We could slow down to a mere fifty when we were not heavily laden, and the average Japanese pilot had no skill at shooting. We used to say that we were safer right in front of them, because they always missed what was in front of their squat noses!

I kept a good lookout, on the alert for hated “bloodspots” which, aptly, were the Japanese planes. The Yellow River passed beneath our tail plane. The cord jerked three times. “We are landing,” signaled Po Ku. Up went the tail, the roar of the engines died and was replaced by a pleasant “wick-wick, wick-wick” as the propellers idly turned over. We glided down with motors throttled well back. Creaks from the rudder as we turned slightly to correct our course. Flaps and tremors from the fabric covering as it vibrated in the wide breeze. A sudden short burst from the engines, and the jarring clatter and rumble as we touched down, and rumbled once again from ridge to ridge. Then the moment most hated by the unfortunate observer cramped in the tail; the moment when the tail dropped and the metal shoe ploughed through the parched earth, raising clouds of choking dust, dust laden with particles of human excreta which the Chinese use to fertilize the fields.

Thân hình cồng kềnh của tôi được giải phóng khỏi không gian chật hẹp ở đuôi máy bay, và tôi đứng lên rên rỉ đau đớn khi máu lưu thông trở lại. Tôi leo lên thân máy bay đang nghiêng để tới cửa. Po Ku đã mở sẵn cửa, và chúng tôi nhảy xuống đất. Những bóng người đang vội vã chạy về phía chúng tôi.

– Nhanh lên, chúng tôi có nhiều người bị thương. Tướng quân Tien bị một thanh kim loại đâm, nó đang nhô ra ở cả đằng trước lẫn đằng sau người ông ấy.

Trong căn nhà cũ nát tàn tạ được sử dụng làm bệnh viện dã chiến, viên tướng đang ngồi thẳng, làn da vàng của ông giờ trở nên xanh xám vì đau đớn và kiệt sức. Ngay phía trên bẹn bên trái một thanh thép sáng nhô ra. Nó trông giống như thanh kim loại được dùng làm tay đòn để khởi động ô tô.

Bất luận nó là gì, nó đã bị thổi văng vào người ông do lực nổ của quả bom rơi ngay gần đó. Tôi chắc chắn phải lấy nó ra nhanh nhất có thể. Đầu thanh kim loại nhô ra ở phía sau trơn và tù, ngay phía trên bên trái xương sống chỗ khớp nối giữa xương cùng và xương chậu, và tôi cho rằng nó suýt chút nữa đã đâm trúng đại tràng xuống hoặc đã đẩy nó sang một bên.

I unfolded my bulky figure from the cramped space in the tail, and stood up with groans of pain as my circulation started to work again. I climbed up the sloping fuselage towards the door. Po Ku had already got it open, and we dropped to the ground. Running figures came racing up to us. “Come quickly, we have many casualties. General Tien had a metal bar blown through him, and it is sticking out back and front.”

In the wretched hovel that was being used as an emergency hospital the General sat bolt upright, his normally yellow skin now a drab grey-green from pain and fatigue. From just above the left inguinal canal a bright steel bar protruded. It looked like the rod used to operate car jacks. Whatever it really was, it had been blown through his body by the blast of a near-miss bomb. Certainly I had to remove it with the least possible delay. The end emerging from the back, just above the left sacro-iliac crest, was smooth and blunt, and I considered that it had just missed or pushed aside, the descending colon.

Sau khi kiểm tra cẩn thận tình trạng người bệnh, tôi gọi Po Ku ra ngoài, khuất tầm mắt của những người phía trong, và nhờ anh tới chỗ máy bay để làm một nhiệm vụ đặc biệt. Khi anh đã đi, tôi cẩn thận lau sạch vết thương của viên Tướng, cũng như thanh kim loại. Ông ta nhỏ người và già cả, nhưng có sức khỏe tương đối. Chúng tôi không có thuốc tê, nhưng tôi đã nói với ông, tôi sẽ nhẹ nhàng nhất có thể:

– Tôi sẽ làm ông đau, cho dù tôi có cẩn thận đến đâu đi nữa, tôi nói. Nhưng tôi sẽ làm tốt nhất trong khả năng của mình.

Không hề lo lắng, ông nói:

– Anh cứ làm đi. Nếu không làm thì đằng nào tôi cũng sẽ chết, thế nên tôi không có gì để mất, mà lại có cái để được.

Từ nắp hộp dụng cụ, tôi lấy ra một mẩu gỗ, khoảng mười tám inche vuông, và khoét một cái lỗ ở giữa vừa khít với thanh kim loại. Lúc này, Po Ku đã trở lại với bộ dụng cụ máy bay.

Chúng tôi cẩn thận luồn tấm gỗ vào thanh kim loại, và Po Ku giữ chặt nó ở cơ thể bệnh nhân. Tôi siết chặt thanh kim loại bằng cái cờ lê Stilton cỡ lớn của chúng tôi, và kéo nhẹ nhàng. Không có gì xảy ra, ngoại trừ việc người bệnh đáng thương trở nên trắng bệch.

After careful examination of the patient I took Po Ku outside, out of hearing of those within, and sent him to the plane on a somewhat unusual mission. While he was away I carefully cleansed the General’s wounds, and the metal bar. He was small and old, but in fair physical condition. We had no anesthetics, I told him, but I would be as gentle as possible. “I shall hurt you, no matter how careful I am,” I said. “But I will do my best.” He was not worried. “Go ahead,” he said. “If nothing is done I shall die anyhow, so I have nothing to lose, but all to gain.”

From the lid of a supply box I prised off a piece of wood, about eighteen inches square, and made a hole in the centre so that it was a tight fit on the metal rod. By this time Po Ku had returned with the plane’s tool kit, such as it was. We carefully threaded the board onto the bar, and Po Ku held it tightly against the patient’s body. I gripped the bar with our large Stilton wrench, and pulled gently. Nothing happened, except that the unfortunate patient turned white.

“Thôi được,” tôi nghĩ, “chúng ta không thể cứ để vật này ở đây, vậy thì được ăn cả ngã về không.” Tôi tì đầu gối mình vào Po Ku, người đang giữ tấm gỗ ở đúng vị trí, tóm chặt cái kẹp giữ thanh sắt, và kéo mạnh, đồng thời xoay nhẹ. Một tiếng rít kinh hoàng khi thanh sắt được nhổ ra, còn tôi, bị mất thăng bằng, bật ngửa và ngã đập đầu. Rất nhanh, tôi đứng dậy, và chúng tôi hối hả đến bên viên Tướng để cầm máu. Nhìn chăm chú vào vết thương dưới ánh đèn pin, tôi đi đến kết luận là không có thiệt hại lớn, vì thế chúng tôi khâu và làm sạch vết thương hết mức có thể.

Cho tới lúc này, sau khi uống thuốc, viên Tướng trông đã hồng hào hơn nhiều, và như ông nói, cảm thấy hạnh phúc hơn rất nhiều. Ông đã có thể nằm nghiêng về một bên, bởi lúc trước ông phải ngồi thẳng đứng khi mang trên người thanh kim loại nặng. Tôi để Po Ku hoàn tất việc băng bó, và đi tới ca bệnh tiếp theo, một phụ nữ có chân phải bị thổi bay ngay phía trên đầu gối. Chân cô đã bị buộc ga rô quá chặt và quá lâu. Chỉ còn một việc có thể làm cho cô; đó phải phẫu thuật cắt bỏ phần còn lại của chân.

“Well,” I thought, “we can’t leave the wretched thing as it is, so it is kill or cure.” I braced my knee against Po Ku, who was holding the board in position, took a fresh grip of the bar, and pulled hard, rotating gently. With a horrid sucking sound the rod came free, and I, off my balance, fell on the back of my head. Quickly I picked myself up, and we hastened to the General and staunched the flow of blood. Peering into the wound with the aid of a flashlight I came to the conclusion that no great damage had been done, so we stitched and cleaned where we could reach. By now, after taking stimulants, the General was looking a much better colour and—as he said—feeling a lot happier. He was now able to lie on his side, whereas before he had had to sit bolt upright, bearing the weight of that heavy metal bar. I left Po Ku to finish the dressing, and went to the next case, a woman who had her right leg blown off just above the knee. A tourniquet had been applied too tightly and for too long. There was only one thing that could be done; we had to amputate the stump.

Chúng tôi nhờ người tháo một cánh cửa, và buộc chặt người phụ nữ vào đó. Rất nhanh, tôi cắt xung quanh phần thịt theo hình “chữ V”, với đầu nhọn hướng về phía cơ thể. Dùng một cái cưa thật sắc, tôi khoét vào trong và cắt phần xương cao nhất có thể. Sau đó, cẩn thận gấp hai miếng da vào với nhau, tôi khâu chúng để tạo thành miếng đệm sát vào phần xương. Công việc mất hơn một tiếng rưỡi, một tiếng rưỡi đau đớn cực độ, và trong suốt thời gian đó người phụ nữ chỉ im lặng, không một tiếng kêu la, không một tiếng rên rỉ, và cũng không hề run rẩy. Cô biết rằng cô đang ở dưới bàn tay của những người bạn. Cô biết rằng những gì chúng tôi làm chỉ để tốt cho cô.

Có nhiều trường hợp khác nữa. Những vết thương nhẹ, và cả những vết thương nghiêm trọng, khi chúng tôi xong việc thì trời đã tối. Ngày hôm nay đến lượt Po Ku bay ở vị trí phi công, nhưng anh không thể nhìn trong ánh sáng đang mờ dần, vì vậy tôi thế chỗ của anh.

Chúng tôi vội vã trở về máy bay, gói ghém những dụng cụ của mình một cách thật nâng niu, lại một lần nữa chúng đã giúp ích cho chúng tôi rất nhiều. Sau đó Po Ku xoay cánh quạt và bắt đầu khởi động động cơ. Những ánh lửa xanh đỏ tóe ra từ ống xả, những người chưa bao giờ nhìn thấy máy bay chắc chắn sẽ tưởng chúng tôi là một con rồng phun lửa. Tôi leo lên khoang, rồi thả mình vào ghế lái, mệt đến mức khó mở được mắt. Po Ku lảo đảo theo sau, đóng cửa và ngã lăn ra sàn ngủ thiếp. Tôi vẫy tay ra hiệu cho những người bên ngoài kéo những tảng đá lớn dùng để chặn bánh xe.

We had men tear down a door, and on it we strapped the woman. Quickly I cut around the flesh in a “vee,” with the point toward the body. With a fine saw I reached in and severed the bone as high as possible. Then carefully folding the two flaps together I stitched them to form a cushion with the end of the bone. Just over half-an-hour it took, half-an-hour of sheer agony, and all the time the woman was quiet, she made no sound, not the slightest whimper, nor did she flinch. She knew that she was in the hands of friends. She knew that what we did, we did for her good.

There were other cases. Minor injuries, and major ones too, and by the time they had been dealt with it was getting dark. Today it had been Po Ku’s turn to fly, to be pilot, but he was quite unable to see in the fading light, and so I had to take over.

We hurried back to the plane, packing away our equipment with loving care. Once again it had served us well. Then Po Ku swung the propellers and started the motors. Stabbing blue-red flames came from our open exhaust, and we must have looked like a fire-eating dragon to one who had never before seen a plane. I clambered aboard, and dropped into the pilot’s seat, so tired that I could hardly keep my eyes open. Po Ku tottered in after me, shut the door, and fell asleep on the floor. I waved to the men outside to pull away the big stones chocking the wheels.

Trời đã tối hơn và cây cối trở nên thật khó nhận biết, tôi đã ghi nhớ thế đất đây, và khởi động động cơ bên phải để quay ngang. Trời lặng gió. Sau đó, khi đã ở đối diện hướng mà tôi cho là đúng, tôi mở hết cỡ cả ba cần gạt. Động cơ gầm lên, máy bay rung chuyển, kêu loảng xoảng khi chúng tôi di chuyển ra ngoài, và lắc lư với tốc độ tăng dần. Các thiết bị đều không thể nhìn thấy được. Chúng tôi không có đèn chiếu sáng, tôi biết rằng đầu phía bên kia của cánh đồng tuy không nhìn thấy được, nhưng đang ở rất gần. Tôi kéo ngược cần điều khiển. Máy bay cất cánh, loạng choạng và nhào xuống, rồi lại bay lên. Chúng tôi đang ở trên không trung. Tôi lượn nghiêng, chúng tôi xoay một vòng chậm rãi, và dần dần tăng độ cao. Ngay dưới những đám mây đêm lạnh lẽo, tôi bay là là, tìm kiếm dấu mốc đơn giản của chúng tôi, con sông Hoàng Hà. Nó ở kia, phía bên trái, phản chiếu một ánh mờ nhạt đối lập với mặt đất tối sẫm. Tôi quan sát phòng khi có máy bay nào khác trên bầu trời, bởi vì tôi không có sự phòng vệ, Po Ku đang ngủ trên sàn phía sau tôi, và tôi không có ai để mắt từ hai bên.

It was getting darker and the trees were very hard to see. I had memorized the lie of the land, and raced up the starboard engine to turn us round. There was no wind. Then facing what I hoped was the right direction I opened all three throttles as wide as they could be opened. The engine roared, and the plane trembled and clattered as we moved off, swaying with ever-increasing speed. The instruments were invisible. We had no lights, and I knew that the unseen end of the field was frighteningly close. I pulled back on the control column. The plane rose, faltered and dipped, and rose again. We were airborne. I banked and we turned in a lazy circle, climbing. Just below the cold night clouds, I leveled off, looking for our plain landmark, the Yellow River. There it was off to the left, showing a faint sheen against the darker earth. I watched, too, for any other aircraft in the sky, because I was defenseless. With Po Ku asleep on the floor behind me I had no one to keep a watch from the rear.

Khi đã xác định được đường bay, tôi ngả người, nghĩ về sự mệt mỏi rã rời của những chuyến bay cứu hộ này, cần phải ứng biến và linh hoạt để điều trị cho những cơ thể đang nguy kịch với bất cứ thứ gì có trong tay. Tôi nghĩ về những câu chuyện tuyệt vời tôi từng được nghe về các bệnh viện ở Anh và Mỹ, và nguồn vật tư y tế và thiết bị khổng lồ mà họ có. Nhưng chúng tôi ở Trung Quốc cần phải ứng biến, xử lý, và tiếp tục cứu chữa bằng những vật dụng mà mình kiếm được.

Hạ cánh trong bóng tối gần như tuyệt đối là một vấn đề thực sự khó khăn. Chỉ có những tia sáng le lói yếu ớt của đèn dầu trong các ngôi nhà của nông dân, và bóng tối sẫm hơn nữa của cây cối. Nhưng chiếc máy bay già nua cần phải hạ cánh, và tôi đã đáp nó xuống với tiếng ầm ầm của khung gầm và tiếng rít ở nạng đuôi. Điều đó chẳng hề làm phiền Po Ku chút nào; anh ấy đang ngủ say. Tôi tắt các động cơ, ra ngoài, chèn phía sau và trước các bánh xe, rồi trở lại máy bay, đóng cửa, và ngủ thiếp trên sàn.

Settled on our course I leant back, thinking how astonishingly tiring these emergency trips could be, having to improvise, to make do, and patch up poor bleeding bodies with anything that came to hand. I thought of the fabulous tales I had heard of hospitals in England and America, and of the immense supplies of materials and instruments they were said to have. But we of China, we had to make do, we had to manage, and go on with our own resources.

Landing was a difficult matter in the almost total darkness. There was only the faint glimmer of the oil lamps in peasants’ houses, and the rather darker darkness of trees. But the old plane had to get down somehow, and I put her down with the rumble of the undercarriage and the screech of the tail skid. It did not disturb Po Ku at all; he was sound asleep. I switched off the motors, got out, put the chocks behind and in front of the wheels, then returned to the plane, shut the door, and fell asleep on the floor.

Sáng sớm, cả hai chúng tôi đều bị đánh thức bởi những tiếng la hét bên ngoài. Vì vậy, chúng tôi mở cửa, có một người lính liên lạc nói với chúng tôi rằng thay vì có một ngày nghỉ như chúng tôi đã nghĩ, chúng tôi cần phải đưa một viên Tướng tới một huyện khác nơi ông ta sẽ có cuộc nói chuyện với Tổng tư lệnh Tưởng Giới Thạch về chiến sự ở khu vực Nam Kinh. Viên Tướng này là một người khốn khổ. Ông ta đã bị thương, và ông ta, trên lý thuyết, đang hồi phục. Chúng tôi thì nghĩ rằng ông ta đang giả vờ ốm để trốn việc. Ông ta tỏ ra mình là người rất quan trọng, tất cả các binh lính trong lòng đều không ưa ông ta. Chúng tôi cần phải chỉnh tề hơn một chút, vì thế chúng tôi phải đến túp lều tạm của mình, lau rửa, và thay quân phục bởi viên Tướng là người khắt khe về trang phục.

Trong khi chúng tôi đang ở trong lều thì trời mưa đổ, nỗi phiền muộn của chúng tôi càng tăng khi thời tiết ngày càng u ám hơn. Mưa! Chúng tôi ghét mưa như bất cứ người Trung Quốc nào. Một nét đẹp của Trung Quốc là những người lính, tất cả họ đều là những con người dũng cảm và mạnh mẽ, một trong những đội quân dũng cảm nhất, nhưng họ ghét mưa. Mưa ở Trung Quốc dữ dội và trút xuống không ngừng. Nó đổ xuống tất cả mọi thứ, thấm đẫm mọi vật, làm ướt đẫm bất cứ ai tình cờ ra ngoài dưới mưa. Khi quay trở lại máy bay của mình bên dưới những chiếc ô, chúng tôi nhìn thấy một binh đoàn Trung Quốc. Họ hành quân dọc theo con đường bên rìa của đường bay, con đường sũng nước và lấm lép bùn.

Những người đàn ông này đang chán nản vì trời mưa. Họ đã có đủ khó khăn thử thách, đủ đau khổ, mà cơn mưa lại càng góp phần vào điều đó. Họ hành quân một cách uể oải, súng của họ được bọc trong túi vải đeo trên vai. Trên lưng họ là những chiếc bao tải, được giữ bằng sợi dây buộc chéo. Trong đó họ cất giữ tất cả những gì thuộc về mình, tất cả vật dụng trong chiến tranh, thực phẩm, tất cả mọi thứ khác. Trên đầu đội những chiếc mũ rơm, tay phải che trên đầu những chiếc ô làm bằng tre và giấy đã được sơn dầu. Thời nay, điều này có vẻ rất lạ lùng. Nhưng thời đó, việc nhìn thấy năm sáu trăm người lính hành quân trên đường dưới năm sáu trăm chiếc ô là hoàn toàn bình thường. Chúng tôi, cũng vậy, sử dụng những chiếc ô để đi ra máy bay của mình.

Early in the morning we were both aroused by shouts outside. So we opened the door, and there was an orderly to tell us that instead of having a day off, as we thought, we had to take a General to another district where he was going to have an interview with General Chiang Kai-Shek about the war in the Nanking area. This General was a miserable fellow. He had been injured, and he was, theoretically, convalescing. We thought he was malingering. He was a very self-important man, and all the staff heartily disliked him. We had to straighten ourselves up a bit, so we made our way to our huts to get ourselves clean, to change our uniform because the General was a stickler for exactness in dress. While we were in the huts the rain came teeming down and our gloom increased as the day became more and more overcast. Rain! We hated it as much as any Chinaman. One of the sights of China was to see the Chinese soldiers, all brave and hardy men, perhaps among the bravest soldiers in the world, but they hated rain. In China the rain came down in a teeming roar, a continuous downpour. It beat down on everything, soaking everything, soaking everyone who happened to be out in it. As we went back to our plane beneath our umbrellas we saw a detachment of the Chinese army. They marched along the road by the side of the aerodrome, the road which was sodden and squelchy with water. The men looked thoroughly disheartened by the rain. They had enough hardship, enough suffering and the rain aggravated it greatly. They marched along dispiritedly, their rifles protected by canvas bags which they had slung on their shoulders. On their backs they had sacks, criss-crossed with rope to keep it intact. Here they kept all their belongings, all their implements of war, their food, everything. On their heads they wore straw hats, and in their right hands, above their heads they carried yellow oiled paper and bamboo umbrellas. Now it would seem amusing. But then it was perfectly ordinary to see five or six hundred soldiers marching down a road under five or six hundred umbrellas. We, too, used umbrellas to get to our plane.

Chúng tôi nhìn một cách ngạc nhiên khi tới bên máy bay. Một toán người đã ở đó, và họ đang căng một mảnh dù bằng vải bạt trên đầu để che mưa cho viên Tướng. Ông ta hống hách vẫy tay ra hiệu với chúng tôi và nói:

– Ai trong các anh có nhiều kinh nghiệm bay hơn?

Po Ku thở dài mệt mỏi:

– Tôi, thưa Tướng quân, anh nói. Tôi đã bay mười năm, nhưng người đồng đội của tôi là phi công giỏi hơn và có nhiều trải nghiệm hơn.

– Tôi mới là người quyết định ai giỏi hơn, viên Tướng nói. Anh sẽ lái máy bay, và anh ta sẽ quan sát để đảm bảo an toàn cho chúng ta.

Thế là Po Ku đi đến khoang của phi công. Còn tôi đi đến đuôi máy bay. Chúng tôi khởi động các động cơ. Tôi có thể nhìn qua ô cửa sổ nhỏ, và thấy viên Tướng với những người tùy tùng của ông trèo lên khoang máy bay. Họ nấn ná khá lâu ở cửa, rất nhiều nghi lễ, rất nhiều những cái vẫy tay, những cái cúi chào và sau đó một anh lính đóng cửa máy bay và hai thợ máy gạt sang bên những vật chèn tại các bánh xe. Một cái vẫy tay cho Po Ku, và các động cơ rồ ga. Anh ra hiệu cho tôi bằng sợi dây và chúng tôi bắt đầu di chuyển.

We stared in amazement as we got to the side of the plane. There was a group of people there, and above their heads they were supporting a canopy of canvas, keeping the rain off the General. He beckoned us very imperiously and said, “Which of you has the longer flying experience?” Po Ku sighed wearily, “I have, General,” he said. “I have been flying for ten years, but my comrade is by far the better pilot and has greater experience.” “I am the judge of who is best,” said the General. “You will fly, and he will keep good watch over our safety.” So Po Ku went to the pilot’s compartment. I made my way to the tail of the plane. We tried the engines. I could watch through the little window, and I saw the General and his aides get aboard. There was much ado at the door, much ceremonial, much waving, bowing, and then an orderly closed the door of the plane and two mechanics pulled aside the chocks at the wheels. A wave to Po Ku, and the engines were revved up. He gave me a signal on our cord and we moved off.

Tôi không hài lòng một chút nào về chuyến bay này. Chúng tôi sẽ bay qua chiến tuyến của quân Nhật, và chúng rất cảnh giác với bất cứ ai bay qua vị trí đóng quân của chúng. Tệ hơn nữa, chúng tôi có ba máy bay chiến đấu, chỉ ba chiếc để bảo vệ chúng tôi. Chúng tôi biết rằng chúng sẽ thu hút sự chú ý của quân Nhật, bởi vì máy bay chiến đấu của Nhật sẽ cất cánh để kiểm tra tình hình, tại sao một chiếc máy bay ba động cơ cũ kỹ như vậy lại có máy bay chiến đấu bảo vệ? Tuy nhiên, vì viên Tướng đã tuyên bố rất chắc chắn rằng ông ta là cấp trên, ông ta là người ra lệnh, và vì vậy mà chúng tôi tiếp tục di chuyển chậm chạp.

Chúng tôi ì ạch đi xuống cuối cánh đồng. Với một đám bụi xoáy, và tiếng loảng xoảng của khung gầm, chiếc máy bay xoay tròn, cả ba động cơ cùng rồ ga tối đa và chúng tôi phi xuống cánh đồng. Một tiếng rít và tiếng gầm, chiếc máy bay già nua lao lên không trung. Chúng tôi bay vòng tròn trong một lúc để tăng độ cao. Đây không phải là thói quen của chúng tôi, nhưng trong tình huống này, nó là mệnh lệnh.

Dần dần chúng tôi lên đến độ cao một nghìn năm trăm mét, rồi ba nghìn mét. Ba nghìn mét là mức tối đa của chúng tôi. Chúng tôi tiếp tục bay vòng tròn cho tới khi ba chiếc máy bay chiến đấu cất cánh, và ổn định đội hình phía trên và phía sau chúng tôi. Tôi cảm thấy hoàn toàn trơ trụi, mắc kẹt trên không với ba chiếc máy bay chiến đấu đang lảng vảng xung quanh. Thỉnh thoảng một chiếc lọt vào tầm nhìn từ ô cửa sổ của tôi, rồi lại thoát ra ngoài phạm vi quan sát. Việc nhìn thấy chúng chẳng hề tạo cho tôi cảm giác an toàn nào. Ngược lại, tôi lo sợ từng giây từng phút sẽ nhìn thấy máy bay của quân Nhật.

I did not feel at all happy about this flight. We were going to fly over the Japanese lines, and the Japanese were very alert as to who flew over their positions. Worse than that, we had three fighters—only three—which were supposed to be guarding us. We knew that they would serve as a great attraction to the Japanese, because the Japanese fighters would come up to see what was the matter, why should an old tri-motored plane like ours have fighter planes guarding it? However, as the General had stated so unmistakably, he was the senior, and he was the one who was giving the orders, and so we lumbered on. We lumbered down to the end of the field. With a swirl of dust, and a clatter of the undercarriage, the plane swung round, the three engines revved up to their limit and we rushed down the field. With a clank and a roar the old plane leapt into the air. We circled round for a time to gain height. That was not our custom, but on this occasion it was our orders. Gradually we got up to five thousand, ten thousand feet. Ten thousand was about our ceiling. We continued to circle around until the three fighters took off, and took formation above us and behind us. I felt absolutely naked, stuck up there with those three fighter planes hanging about. Every now and again I could see one slide into view from my window, and then gradually drop back out of my range of vision. It gave me no feeling of security to see them there. On the contrary, I feared every moment to see Japanese planes as well.

Chúng tôi bay xa hơn và xa hơn. Chặng đường dường như kéo dài vô tận. Có cảm giác như chúng tôi đang bị treo lơ lửng giữa thiên đường và mặt đất. Thỉnh thoảng có những cú giật và rung nhẹ, chiếc máy bay lắc lư một chút, và tâm trí tôi đi lang thang trước sự đơn điệu của nó. Tôi nghĩ về cuộc chiến đang diễn ra trên mặt đất bên dưới chúng tôi. Tôi nghĩ về những hành động tàn bạo, những điều khủng khiếp, biết bao điều trong số đó tôi đã tận mắt chứng kiến. Tôi nghĩ về Tây Tạng yêu dấu của mình, sẽ hạnh phúc nhường nào nếu như tôi có thể lái kể cả Abie cũ kỹ cũng được, bay mất rồi hạ cánh ở chân điện Potala ở Lhasa. Đột nhiên có những tiếng nổ lớn, bầu trời dường như bị lấp đầy bởi những chiếc máy bay đang lao nhanh, những chiếc máy bay với “đốm máu” đáng ghét trên đôi cánh của chúng.

Tôi có thể thấy khi chúng bay vào tầm nhìn, rồi lại lao ra như tên bắn. Tôi cũng thấy những vệt đạn và khói đen của pháo. Chẳng cần phải gửi tín hiệu tới Po Ku. Hiển nhiên là chúng tôi đang bị bắn dữ dội. Abie Già Cả tròng trành lao xuống, rồi lại ngóc lên. Mũi của nó hướng lên, và chúng tôi dường như lao vút lên trời. Po Ku đang đưa chúng tôi vào thế bất lợi, tôi nghĩ, và thấy việc của mình là duy trì vị trí ở đuôi máy bay. Đột nhiên, một viên đạn bay xuyên qua lớp vải bạt ngay phía trước tôi. Bên cạnh một sợi dây đứt bật, một đầu của nó quất vào mặt tôi suýt chút nữa thì trúng mắt trái. Tôi co mình hết sức và cố gắng ép người trở lại đuôi máy bay. Một trận chiến dữ dội đang diễn ra, trận chiến mà giờ đây tôi có thể quan sát rõ ràng, bởi vì đạn đã chọc thủng những đường lỗ chỗ trên vải bạt, ô cửa sổ đã biến mất, và nhiều chỗ vải khác cũng đã bị xé rách. Tôi dường như đang ngồi trên những đám mây trong một cái khung gỗ.

Trận chiến lúc trùng xuống lúc quyết liệt, sau đó có một tiếng “RẦM” khủng khiếp. Toàn bộ máy bay rung chuyển và mũi chúc xuống. Tôi nhìn hoảng hốt ra ngoài cửa sổ. Máy bay Nhật dường như phủ kín bầu trời. Một máy bay Nhật và một máy bay Trung Quốc va vào nhau. Chỉ một tiếng “BÙM”, lửa đỏ bùng lên và tiếp sau đó là khỏi đen, rồi hai chiếc máy bay xoay tít và lao xuống cùng với nhau trong một cuộc vật lộn chết chóc. Các phi công văng ra, và rơi xuống quay cuồng, tay và chân dang rộng, lộn nhào giống như những cái bánh xe. Nó khiến tôi nhớ về những ngày lần đầu bay trên diều ở Tây Tạng, khi một vị lạt ma rơi khỏi chiếc diều và lao xuống xoay tít giống như vậy, rồi đâm xầm xuống vách đá ở bên dưới hàng trăm mét.

We droned on, and on. It seemed endless. We seemed to be suspended between heaven and earth. There were slight rocks and bumps, the plane swayed a little, and my mind wandered with the monotony of it. I thought of the war going on beneath us down on the ground. I thought of the atrocities, of the horrors, so many of which I had seen. I thought of my beloved Tibet, and how pleasant it would be if I could take even old Abie and fly off and land at the foot of the Potala in Lhasa. Suddenly there were loud bangs, the sky seemed to be filled with whirling planes, planes with the hated “bloodspot” on their wings. I could see them coming into view, and darting out again. I could see tracers and the black smoke of cannon fire. There was no point in my giving signals to Po Ku. It was self-evident that we were being heavily fired upon. Old Abie lurched and dived, and rose again. Her nose went up, and we seemed to claw at the sky. Po Ku was putting us into violent manoeuvres, I thought, and I had my work cut out to maintain my position in the tail. Suddenly bullets came whizzing through the fabric just in front of me. At my side a wire twanged, and snapped, and the end of it scraped my face just missing my left eye. I made myself as small as I could and tried to force myself further back in the tail. There was a ferocious battle in progress, a battle which was now in my full view, because bullets had torn a dotted line on the fabric, and the window had gone, and many feet of materiel as well. I seemed to be sitting up in the clouds on a wooden framework. The battle ebbed and flowed, then there was a tremendous “CRUMP.” The whole plane shook and the nose dropped. I took one frantic look from the window. Japanese planes seemed to fill the sky. As I watched I saw A Japanese and a Chinese plane collide. There was a “BOOM” and a gout of orange-red flame followed by black smoke, and the two planes went whirling down together locked in a death embrace. The pilots spewed out, and fell whirling, hands and legs outstretched, turning over and over like wheels. It reminded me of my early kite flying days in Tibet, when the lama fell out of a kite and went whirling down in much the same way, to crash upon the rock thousands of feet below.

Một lần nữa, toàn thân máy bay chấn động dữ dội, cánh chao đảo, giống như một chiếc lá đang rơi. Tôi nghĩ thế là hết. Mũi máy bay chúc xuống, đuôi dựng lên đột ngột làm tôi trượt từ đuôi máy bay vào trong khoang khách, ở đây tôi bắt gặp một khung cảnh hết sức khủng khiếp. Viên Tướng nằm chết; rải rác xung quanh khoang khách là xác của những người tùy tùng. Đạn pháo đã xuyên qua họ và gần như thổi bay họ thành từng mảnh. Tất cả đoàn tùy tùng cũng như các trợ lý đều đã chết hoặc đang hấp hối.

Khoang khách ở trong tình trạng hoàn toàn hỗn độn. Tôi đạp tung cửa buồng lái rồi giật mình lùi lại, cảm thấy nôn nao. Bên trong là cái xác không đầu của Po Ku, gục trên bảng điều khiển. Đầu của anh, hoặc phần còn lại của nó, bắn tung tóe trên bảng chỉ dẫn. Kính chắn là một đám máu hổ lốn, máu và não. Nó bị che khuất đến nỗi tôi không thể nhìn ra ngoài được. Rất nhanh, tôi chộp lấy vai Po Ku, đẩy anh ra khỏi chỗ ngồi. Một cách cuống cuồng, tôi ngồi xuống, vồ lấy cần điều khiển, chúng quẫy mạnh, lảo đảo dữ dội, nhầy nhụa máu, và cực kỳ khó cầm. Tôi kéo ngược cần điều khiển cố gắng làm cho máy bay ngóc đầu lên. Nhưng tôi không thể nhìn thấy gì.

Tôi vắt chân qua bộ điều khiển và run rẩy dùng tay mình cạo lớp não và máu ra khỏi kính chắn gió, cố gắng làm sạch một mảng để có thể nhìn thấy bên ngoài. Mặt đất đang lao tới ngay trước mặt. Tôi nhìn thấy nó qua lớp màn màu đỏ từ máu của Po Ku. Mọi vật đang lớn dần lên. Chiếc máy bay rung mạnh, các động cơ rít lên chói tai. Cần gạt không còn hoạt động. Động cơ cánh trái đã văng ra ngoài. Ngay sau đó động cơ cánh phải cũng nổ tung. Với trọng lượng hai bên cánh giảm đi, mũi máy bay hơi ngóc lên. Tôi kéo cần điều khiển mạnh hơn nữa. Mũi máy bay ngóc lên một chút nhưng đã muộn, quá muộn. Chiếc máy bay đã bị tàn phá quá nặng nề để có thể đáp ứng bộ điều khiển. Tôi đã làm chậm nó một chút, nhưng không đủ để hạ cánh như mong muốn. Mặt đất ở gần hơn nữa; các bánh xe chạm vào đất, mũi máy bay thậm chí còn cắm sâu hơn nữa. Có tiếng kêu răng rắc kinh khủng, và tiếng gỗ bị gẫy vụn. Tôi cảm giác như thế giới đang tan ra quanh mình, cùng với chiếc ghế của phi công, tôi bắn ngay ra ngoài qua bụng máy bay vào một đống bốc mùi khó chịu. Tôi thấy chân mình đau đớn khủng khiếp, và trong một lúc tôi không còn biết gì nữa.

Once again the whole plane shuddered violently, and went wing over wing, like a falling leaf. I thought that the end had come. The nose dropped, the tail rose with such suddenness that I slid straight down the fuselage into the cabin, and into a scene of sheerest horror. The General lay dead; strewn around the cabin were the bodies of the attendants. Cannon shells had ripped through them and just about blown them to bits. All his attendants or aides were either dead or dying. The cabin was a complete shambles. I wrenched open the door of the pilot’s compartment and recoiled, feeling sick. Inside was the headless body of Po Ku, hunched over the controls. His head, or what remained of it, was spattered over the instrument panel. The windscreen was a bloody mess, blood and brains. It was so obscured that I could not see out of it. Quickly I seized Po Ku around the shoulders, and threw him aside from the seat. With utter haste I sat dawn, and grabbed the controls. They were thrashing about, jumping violently. They were slimy with blood, and it was with extreme difficulty that I could hold them. I pulled back on the control column to try and bring up the nose. But I could not see. I crossed my legs over the column and shuddered using my bare hands to scrape the brains and the blood from the windscreen, to try and make a patch so that I could see. The ground was rushing up. I saw it through the red haze of Po Ku’s blood. Things were getting larger and larger. The plane was trembling the engines were screeching. The throttles had no effect whatever upon them. The port wing engine jumped straight out. After that the starboard engine exploded. With the weight of those two gone the nose rose slightly. I pulled back harder and harder. The nose rose slightly more but it was too late, much too late. The plane was too battered to answer its controls properly. I had managed to slow it somewhat, but not enough to make a satisfactory landing. The ground appeared to rise up; the wheels touched, the nose fell even more. There was a shocking scrunch, and the rending of woodwork. I felt as if the world was disintegrating around me as, together with the pilot’s seat, I shot right out through the bottom of the plane into an odorous mass. There was absolutely excruciating pain in my legs, and for a time I knew no more.

Tôi tỉnh lại có lẽ là không lâu sau đó bởi vì tôi vẫn còn nghe thấy tiếng súng máy khi tỉnh dậy. Máy bay Nhật đang bay thấp xuống; nhấp nháy ánh đỏ từ họng súng. Chúng đang bắn phá đống đổ nát từng là Abie Già Cả, bắn để chắc chắn rằng không còn ai sống sót trong đó. Một đốm lửa nhỏ bập bùng ở động cơ, động cơ duy nhất còn lại ở mũi máy bay. Lửa lan ra xung quanh về phía khoang khách, nơi vải bạt đã thấm đẫm xăng. Một ngọn lửa trắng bùng lên kèm theo khói đen. Xăng chảy tràn mặt đất, và có cảm giác như lửa đang trút xuống khi xăng bắt cháy. Sau đó là một tiếng nổ và các mảnh vỡ rơi xuống như mưa, và thế là Abie đã hoàn toàn tan biến. Cuối cùng sau khi đã hài lòng, máy bay Nhật bay đi.

Lúc này tôi mới có thời gian để nhìn lại mình, và để xem mình đang ở đâu. Trước sự kinh hoàng của tôi, tôi thấy mình đang ở trong một con mương thoát nước, một cái cống. Ở Trung Quốc rất nhiều cống rãnh mở, và tôi đang ở một trong số đó. Mùi hôi thối đơn giản là kinh khủng, tôi tự an ủi mình với ý nghĩ rằng ít nhất thì ở chỗ này cũng đã cứu thoát mình khỏi lửa đạn của quân Nhật. Rất nhanh, tôi gỡ mình ra khỏi ghế ngồi rách nát của phi công. Tôi nhận thấy mình đã gãy cả hai mắt cá chân, với nỗ lực đáng kể tôi cố gắng bò trên tay và đầu gối, cào cấu vào lớp đất vụn để bò lên bờ mương và thoát ra khỏi mớ hổ lốn dính dớp của nước thải.

It could not have been very long before I regained consciousness, because I awoke to the sound of gunfire. I looked up. Japanese planes were flying down; there were flashes of red from the gun muzzles. They were shooting at the wreckage of Old Abie, shooting to make sure there was no one in it. A little flicker of fire started at the engine, the only engine left, in the nose. It ran around toward the cabin where the fabric had been saturated with petrol. There was a sudden flare of white flame topped by black smoke. Petrol was spilling on the ground, and it looked as if there was flame pouring down because the petrol was alight. Then there was just a boom, and wreckage came raining down, and Abie was no more. Satisfied at last the Japanese planes made off.

Now I had time to look about me, and to see where I was. To my horror I found that I was in a deep drainage ditch, in a sewer. In China many of the sewers are open and I was in one of them. The stench was simply appalling. I consoled myself with the thought that at least the position in which I had found myself had saved me from Japanese bullets or from fire. Quickly I freed myself from the wreckage of the pilot’s seat. I found that I had snapped both ankles, but with considerable effort I managed to crawl along on hands and knees, scrabbling at the crumbling earth to reach the top of the ditch, and to escape from the clinging mess of sewage.

Trên bờ mương, ngay đối diện ngọn lửa vẫn đang chập chờn trên mặt đất còn dính xăng, tôi lại ngất một lần nữa vì đau đớn và kiệt sức, nhưng những cú đá mạnh vào hai bên sườn đã nhanh chóng làm tôi tỉnh dậy. Lính Nhật đã chú ý tới những đốm lửa, và chúng đã tìm thấy tôi.

– Ở đây có một tên còn sống.

Một giọng nói vang lên. Tôi mở mắt, và thấy một tên lính Nhật cầm súng trường có gắn lưỡi lê. Lưỡi lê đã được rút ra, chăm chăm đâm vào tim tôi.

– Tao phải gọi nó dậy, để nó biết rằng nó sắp bị giết.

Hắn nói với đồng đội của mình, rồi trực đâm vào tôi. Ngay lúc đó một tên sĩ quan vội vã chạy tới.

– Dừng lại, tên này hét lên. Đưa nó về trại. Chúng ta phải bắt nó khai ra người ở trên máy bay là ai, và tại sao chúng lại được bảo vệ như vậy. Đưa nó về trại. Chúng ta sẽ tra hỏi nó.

Thế là tên lính đeo khẩu súng lên vai, nắm lấy cổ áo tôi, kéo tôi đi theo.

– Nặng ghê, này. Giúp tao một tay

Một trong những tên lính đi đến và đưa tay tóm lấy tôi. Chúng cùng nhau kéo tôi, chân tôi bị cào xước trên nền đất đá. Cuối cùng, tên sĩ quan, dường như đang đi kiểm tra theo thông lệ, quay trở lại. Gầm lên giận dữ, hắn quát:

– Vác nó lên.

Hắn nhìn lên cơ thể bê bết máu của tôi, nhìn vào vệt máu chảy dọc con đường tôi vừa bị kéo qua, rồi hắn tát vào mặt hai tên lính gác. Hắn nói:

– Nếu nó mất máu nữa thì sẽ không còn người để thẩm vấn, lúc ấy tao sẽ hỏi tội hai đứa chúng mày.

Vì vậy, tôi được nằm nghỉ ngơi trên mặt đất một lúc, trong khi một tên đi tìm phương tiện vận chuyển, vì tôi là một người to lớn và khá cồng kềnh, trong khi lính Nhật lại rất bé nhỏ.

At the top of the bank, just across from the flames which still flickered on the petrol saturated earth, I fainted again with pain and exhaustion, but heavy kicks in my ribs soon brought me back to consciousness. Japanese soldiers had been attracted to the spot by the flames, and they had found me. “Here is one who is alive,” said a voice. I opened my eyes, and there was a Japanese soldier with a rifle with a fixed bayonet. The bayonet was drawn back, ready for a thrust at my heart. “I had to bring him back, so that he would know he was being killed,” he said to a comrade of his and he made to thrust at me. At that moment an officer came hurrying along. “Stop” he shouted. “Take him to the camp. We will make him tell us who were the occupants of this plane and why they were so guarded. Take him to the camp. We will question him.” So the soldier slung his rifle on his shoulder, and caught hold of me by the collar and started to drag me along. “Heavy one, this. Give me a hand,” he said. One of his companions came over and caught me by an arm. Together they dragged me along, scraping off the skin of my legs at the same time as I was pulled along the stony ground. At last the officer, who apparently was doing a routine inspection, returned. With a roar of rage he shouted, “Carry him.” He looked at my bleeding body, and at the trail of blood I was leaving behind and he smacked the two guards across the face with the flat of his hand. “If he loses any more blood there will not be enough man to question, and I shall hold you responsible,” he said. So for a time I was allowed to rest on the ground while one of the guards went off in search of some sort of conveyance, because I was a large man, quite bulky, and the Japanese guards were small and insignificant.

Cuối cùng thì tôi cũng bị ném như một bao rác lên một cái xe cút kít một bánh, và đưa tới tòa nhà mà người Nhật sử dụng làm nhà tù. Ở đây tôi bị hất khỏi xe, và một lần nữa tôi lại bị tóm cổ áo, kéo lê đến một căn phòng và vứt ở đó. Cánh cửa đóng sầm và được khóa chặt, có lính gác đứng bên ngoài. Sau một lúc, tôi nắn lại mắt cá chân và đặt nẹp lên. Nẹp là những mẩu gỗ có trong phòng giam, nơi này có vẻ đã từng là nhà kho. Để buộc những miếng nẹp, tôi phải xé quần áo của mình.

Eventually I was tossed like a sack of rubbish on to a one-wheeled barrow, and carried off to a building which the Japanese were using as a prison. Here I was just tipped off, and again dragged by the collar to a cell and left to myself. The door was slammed and locked, and the soldiers set to guard outside. After a few moments I managed to set my ankles, and put splints on. The splints were odd pieces of wood which happened to be in the cell which apparently had been used as some sort of store. To bind these splints I had to tear strips from my clothing.

Trong nhiều ngày, tôi nằm trong phòng giam đơn độc, chỉ có chuột và nhện làm bạn. Tôi được ăn một lần mỗi ngày với một lít nước và những mẩu thức ăn thừa mà lính Nhật vứt lại, những mẩu thừa mà có lẽ chúng đã cắn, cảm thấy không vừa miệng, và nhổ ra. Nhưng đó là nguồn thực phẩm duy nhất mà tôi có. Tôi đã bị giam giữ ở đó khoảng hơn một tuần, vì những chỗ xương bị gãy của tôi đang lành dần. Sau đó, vào nửa đêm, cánh cửa phòng giam bật mở một cách thô bạo, những tên lính Nhật bước vào một cách ầm ĩ. Tôi bị kéo đứng lên. Chúng phải đỡ tôi vì mắt cá chân tôi chưa đủ khỏe để đỡ trọng lượng cơ thể. Một tên sĩ quan tiến đến và tát vào mặt tôi. Hắn nói:

– Tên của mày?

Tôi đáp:

– Tôi là sĩ quan của quân đội Trung Quốc, và tôi là tù binh chiến tranh. Đó là tất cả những gì tôi muốn nói.

Tên sĩ quan nói:

– ĐÀN ÔNG không được cho phép mình làm tù nhân. Tù nhân chỉ là thứ cặn bã không có nhân quyền. Mày sẽ trả lời tao.

Nhưng tôi không trả lời. Vì thế chúng đánh tôi vào đầu bằng những thanh kiếm của chúng, chúng đấm tôi, đá tôi, và khạc nhổ vào tôi. Vì tôi vẫn nhất quyết không trả lời, chúng châm  vào mặt và người tôi bằng những đầu thuốc lá đang cháy, và đốt diêm giữa những ngón tay của tôi. Sự huấn luyện của tôi đã không vô ích. Tôi chẳng nói gì, chúng không thể bắt tôi nói. Tôi chỉ giữ im lặng và đặt tâm trí của mình vào những suy nghĩ khác, biết rằng đó là cách tốt nhất để đối phó với việc này. Cuối cùng một tên lính lấy báng súng trường thúc mạnh xuống lưng tôi, đánh gục tôi, và làm tôi choáng váng bằng cú đánh tàn bạo. Tên sĩ quan bước qua tôi, nhổ vào mặt, rồi đá tôi một cú thật mạnh và nói:

– Chúng tao sẽ còn quay lại, rồi mày sẽ phải nói.

Tôi đổ gục xuống sàn nhà, và nằm đó vì cũng chẳng có chỗ nào khác để nghỉ ngơi. Tôi đã cố gắng hồi phục sức khỏe một chút. Đêm đó không có sự quấy rầy nào nữa, tôi cũng không nhìn thấy ai ngày hôm sau, hôm sau nữa và sau nữa. Trong ba ngày bốn đêm tôi bị giam mà không có thức ăn, không có nước uống và cũng không nhìn thấy bất cứ ai cả. Luôn trong tình trạng chờ đợi tự hỏi điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.

For days I lay in the prison, in the solitary cell, with only rats and spiders for company. Fed once a day on a quart of water and on scraps left over from the tables of the Japanese guards, scraps which perhaps they had chewed, and found unsatisfying, and spat out. But it was the only food I had. It must have been more than a week that I was kept there, because my broken bones were getting well. Then, after midnight, the door was roughly flung open, and Japanese guards entered noisily. I was dragged to my feet. They had to support me because my ankles were still not strong enough to take my weight. Then an officer came in and smacked me across the face. “Your name?” he said. “I am an officer of the Chinese forces, and I am a prisoner-of-war. That is all I have to say,” I replied. “MEN do not allow themselves to be taken prisoners. Prisoners are scum without rights. You will answer me,” said the officer. But I made no reply. So they knocked me about the head with the flat of their swords, they punched me, kicked me, and spat at me. As I still did not answer they burned me about the face and body with lighted cigarettes, and put lighted matches between my fingers. My training had not been in vain. I said nothing, they could not make me talk. I just kept silent and put my mind to other thoughts, knowing that that was the best way of doing things. Eventually a guard brought a rifle butt down across my back, knocking the wind out of me, and almost stunning me with the violence of the blow. The officer walked across to me, spat in my face, gave me a hard kick and said, “We shall be back, you will speak then.” I had collapsed on the floor, so I stayed there, there was no other place to rest. I tried to recover my strength somewhat. That night there was no further disturbance, nor did I see anyone the next day, nor the day after that, nor the day after that. For three days and four nights I was kept with no food, no water and without seeing anyone at all. Kept in suspense wondering what would happen next.

Vào ngày thứ tư, một tên sĩ quan đến, một tên khác và nói rằng chúng sẽ chăm sóc tôi, rằng chúng sẽ đối xử tốt với tôi, nhưng tôi, ngược lại, phải nói cho chúng về tất cả những gì tôi biết về Trung Quốc, về quân đội Trung Quốc và Tưởng Giới Thạch. Chúng nói rằng chúng đã biết được tôi là ai, rằng tôi thuộc về giới quý tộc cao cấp của Tây Tạng, và chúng muốn Tây Tạng thân thiện với chúng. Tôi tự nhủ “Phải, chắc chắn chúng đang biểu lộ một tình hữu nghị đặc biệt,” Tên sĩ quan cúi chào, quay đi và rời khỏi đó.

Trong một tuần, tôi được đối xử khá tốt, được cho ăn ngày hai bữa, và được cho nước uống, và đó là tất cả. Dù không đủ nước uống, cũng không đủ thức ăn, nhưng ít nhất chúng để cho tôi yên. Nhưng sau đó, ba tên trong số chúng cùng nhau đến, và nói rằng chúng sẽ đặt câu hỏi cho tôi, và tôi sẽ trả lời chúng. Chúng đưa đến một bác sĩ người Nhật để khám cho tôi, ông ta nói rằng tôi đang ở trong tình trạng rất xấu, nhưng vẫn đủ khỏe để được thẩm vấn. Ông ta nhìn mắt cá chân của tôi và nói rằng nếu sau này tôi vẫn có thể đi lại được thì đúng là một phép màu. Sau đó chúng cúi chào tôi rất kiểu cách và cúi chào lẫn nhau, rồi lũ lượt đi ra giống như một nhóm nam sinh. Một lần nữa cửa phòng giam đóng sầm lại phía sau chúng, và tôi biết rằng chỉ lát nữa thôi, ngay trong ngày hôm đó, tôi sẽ phải đối mặt với một cuộc thẩm vấn nữa. Tôi trấn tĩnh tâm trí mình, và quyết định rằng cho dù chúng có làm bất cứ điều gì, tôi cũng sẽ không phản bội người Trung Quốc.

On the fourth day an officer came again, a different one and said that they were going to look after me, that they were going to treat me well, but that I in return must tell them all that I knew about the Chinese, and about the Chinese forces and Chiang Kai-Shek. They said that they had found out who I was, that I was a high noble from Tibet, and they wanted Tibet to be friendly with them. I thought to myself “Well they are certainly showing a peculiar form of friendship,” The officer just made a bow, turned, and left.

For a week I was reasonably well treated, given two meals a day, and water, and that was all. Not enough water, and not enough food, but at least they left me alone. But then three of them came together, and said that they were going to question me, and I was going to answer their questions. They brought a Japanese doctor in with them who examined me, and said that I was in bad shape, but I was well enough to be questioned. He looked at my ankles and said that it was a marvel that I could possibly walk after. Then they bowed ceremoniously to me, and ceremoniously to each other, and trooped out like a gang of schoolboys. Once again the cell door clanged behind them and I knew that later on that day I was going to face interrogation once again. I composed my mind and determined that no matter what they did I would not betray the Chinese.

[1]Nga trắng (White Russian) chỉ một vùng đất tại Đông Âu gần Belarus ngày nay.


Có thể bạn quan tâm

Xem tất cả

Đăng ký hướng dẫn Thiền cơ bản

Loading...
Logo-vmc
TRUNG TÂM THIỀN ĐỊNH:
- Số 116 Trần Vỹ, Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội
Chị Khánh:  

‎0981956875

Chị Thủy:  

‎0981956820

Facebook:

facebook.com/congdongthienVietNam

TIN TỨC NỔI BẬT

© 2024 Copyright by IT AUM