Chương XI: Trở Thành Tu Sĩ – Con Mắt Thứ Ba – Lobsang Rampa
19:20 21/11/2020Tất cả nghị lực tuổi trẻ của tôi đều hướng về mục tiêu duy nhất là làm sao thi đậu một cách vẻ vang vào kỳ thi sắp tới. Nhưng vì ngày lễ sinh nhật mười hai tuổi của tôi sắp đến, nên tôi cũng giảm bớt phần nào việc học. Tôi đã trải qua những năm học hành ráo riết về các môn chiêm tinh, y khoa, giáo lý, toán pháp, tiếng Tây Tạng và tiếng Trung Hoa, đặc biệt là môn thư pháp và toán học. Có rất ít thời gian để chơi và “trò chơi” duy nhất chúng tôi có thời gian là môn võ thuật bởi sẽ có một kỳ thi khắc nghiệt cho môn này. Khoảng ba tháng trước kỳ thi, Đại Đức Minh Gia đã nói: “Không cần ôn lại nhiều, Lobsang, nó chỉ làm con rối loạn trí nhớ. Hãy giữ sự an tịnh như con đang có bây giờ, tri thức sẽ đến.”
My youthful determination was devoted to passing the examination at the first attempt. As the date of my twelfth birthday approached, I gradually slackened off studies, for the examination started on the day after my birthday. The past years had been filled with intensive studies. Astrology, herbal medicine, anatomy, religious ethics, and even on the correct compounding of incense. Tibetan and Chinese languages, with special reference to good calligraphy, and mathematics. There had been little time for games, the only “game” we had time for was judo, because we had a stiff examination on this subject. About three months before, the Lama Mingyar Dondup had said: “Not so much revision, Lobsang, it merely clutters up the memory. Be quite calm, as you are now, and the knowledge will be there.”
Ngày thi đã đến. Đúng sáu giờ sáng, tôi và mười lăm thí sinh khác có mặt ở phòng thi. Chúng tôi tham dự một buổi lễ cầu nguyện ngắn để cho tâm trí được minh mẫn, và sau đó, để đảm bảo rằng không thí sinh nào không chịu nổi sự cám dỗ không xứng đáng với người tu hành, chúng tôi phải cởi quần áo và bị khám xét, sau đó chúng tôi được phát quần áo sạch để thay. Vị Trưởng Giám thị dẫn đường, đưa chúng tôi đi từ gian thờ của phòng thi đến các căn phòng nhỏ khép kín. Đó là những phòng nhỏ bằng đá, mỗi chiều từ hai đến ba mét, cao khoảng hai mét rưỡi. Bên ngoài luôn có các nhà sư cảnh vệ đi tuần. Mỗi thí sinh được đưa vào một phòng. Cánh cửa đóng rồi khóa lại và gắn niêm phong. Khi chúng tôi đã yên vị trong căn phòng nhỏ của mình, các nhà sư đưa bút, giấy, mực và đề thi môn đầu tiên đến qua một qua ô cửa sập nhỏ trên tường. Chúng tôi cũng được phục vụ trà pha bơ và tsampa. Nhà sư đưa đồ ăn dặn rằng chúng tôi được ăn tsampa ba lần mỗi ngày, còn trà có thể dùng bất cứ lúc nào. Sau đó chúng tôi bắt tay vào làm bài thi đầu tiên. Trong sáu ngày liên tiếp, mỗi ngày chúng tôi thi một môn, và chúng tôi phải làm bài từ tờ mờ sáng tới tối mịt. Căn phòng nhỏ của chúng tôi không có mái che, vì vậy chúng tôi dùng ánh sáng của phòng thi lớn.
So the day arrived. At six in the morning I and fifteen other candidates presented ourselves at the examination hall. We had a short service to put us in the right frame of mind, and then, to make sure that none of us had yielded to unpriestly temptation, we had to strip and be searched, after which we were given clean robes. The Chief Examiner led the way from the little temple of the examination hall to the closed cubicles. These were stone boxes about six feet by ten feet in size and about eight feet high. Outside the boxes police-monks patrolled all the time. Each of us was led to a cubicle and told to enter. The door was shut, locked and a seal applied. When all of us had been sealed into our own little box, monks brought writing material and the first set of questions to a small trap in the wall. We were also brought buttered tea and tsampa. The monk who brought that told us that we could have tsampa three times a day, and tea as often as we wanted. Then we were left to deal with the first paper. One subject a day for six days, and we had to work from the first light in the morning until it was too dark to see at night. Our cubicles had no roof, so we got whatever light came into the main examination hall.
Chúng tôi phải ở trong phòng thi tách biệt trong suốt thời gian thi, không được phép rời khỏi nơi đó vì bất cứ lý do gì. Khi trời bắt đầu chạng vạng tối, một nhà sư xuất hiện tại ô cửa và thu bài thi của chúng tôi. Sau đó chúng tôi nằm ngủ đến sáng hôm sau. Theo kinh nghiệm của tôi, để trả lời một trang bài thi viết một môn học phải mất mười bốn tiếng đồng hồ để làm bài, chắc chắn nó kiểm tra được cả kiến thức và thần kinh của thí sinh. Đến đêm thứ sáu thì việc thi viết kết thúc. Tuy nhiên chúng tôi vẫn phải ở lại phòng thi vì sáng hôm sau còn phải làm vệ sinh để nó sạch như ban đầu. Thời gian còn lại trong ngày chúng tôi được tùy ý sử dụng. Ba ngày sau, bài thi viết đã được chấm xong và những điểm sai sót được ghi lại. Lần lượt mỗi chúng tôi bị gọi ra trước Hội đồng giám khảo. Các thầy chỉ hỏi những phần trả lời chưa đúng, và việc sát hạch này cũng chiếm trọn một ngày.
We stayed in our own separate boxes all the time, for no reason whatever were we permitted to leave. As the evening light began to fade, a monk appeared at the trap and demanded our papers. We then lay down to sleep until the following morning. From my own experience I can say that an examination paper on one subject, which takes fourteen hours to answer, certainly does test one’s knowledge and nerves. On the night of the sixth day the written examinations were at an end. We were kept in our cubicles that night because in the morning we had to clean them out and leave them as we found them. The rest of the day was ours to spend as we desired. Three days after, when our written work had been checked, and our weaknesses noted, we were called before the examiners, one at a time. They asked us questions based on our weak points only, and their interrogation occupied the whole of the day.
Ngày hôm sau, tất cả mười sáu thí sinh tề tựu lại vũ đường để thi môn quyền thuật. Bài thi này chúng tôi sẽ được kiểm tra kiến thức về các thế võ siết cổ, những miếng khóa, ngáng, ném, và sự tự chủ. Mỗi thí sinh phải đấu võ với ba thí sinh khác. Những thí sinh yếu kém nhất sẽ bị loại rất nhanh, rồi đến lượt những thiếu niên khác, và sau cùng chỉ còn lại một mình tôi thủ đài. Sự thành công này là nhờ sự huấn luyện võ nghệ dưới sự chỉ dẫn của võ sư Tzu, mà thuở nhỏ tôi vẫn cho là bất công và tàn bạo. Tôi đã được chấm hạng nhất về môn quyền thuật.
Qua ngày hôm sau, chúng tôi được nghỉ để lấy lại sức, và ngày kế đó mới tuyên bố kết quả. Tôi và bốn thí sinh khác được chấm đậu. Chúng tôi đã trở thành những tu sĩ kiêm y sĩ.
Đại đức Minh Gia, mà tôi không gặp trong suốt mùa thi cử, cho gọi tôi đến. Người lộ vẻ vui mừng trên nét mặt, và nói với tôi khi tôi đến trình diện trước mặt người: ‘Lobsang, khá khen cho con đã đậu đầu bảng. Sư trưởng đã gửi một phúc trình đặc biệt lên đức Đạt-lai Lạt-ma. Người muốn đề nghị với Ngài phong cho con chức Lạt-ma ngay lập tức, nhưng ta không đồng ý việc ấy.’
Thấy tôi lộ vẻ không hài lòng, sư phụ tôi nói thêm: ‘Tốt hơn con hãy cố gắng học hỏi và đạt tới chức vị ấy bằng khả năng của chính mình. Nếu con lãnh tước vị Lạt-ma ngay bây giờ, con sẽ xao lãng sự học. Sau này con sẽ thấy rằng sự học của con có một tầm quan trọng rất lớn. Tuy nhiên, ta cho phép con ở căn phòng kế bên, vì con chắc chắn sẽ thi đậu kỳ thi tuyển các vị Lạt-ma vào thời điểm thích hợp.’
The next morning the sixteen of us had to go to the room where we were taught judo. This time we were going to be examined on our knowledge of strangleholds, locks, breakfalls, throws, and self-control. Each of us had to engage with three other candidates. The failures were soon weeded out. Gradually the others were eliminated, and at last, due solely to my early training at the hands of Tzu, I was the only one left. I, at least, had passed top in judo! But only because of my early training, which at the time I had thought brutal and unfair.
We were given the next day to recover from the hard days of examination, and on the day following we were informed of the results. I and four others had passed. We would now become trappas, or medical priests. The Lama Mingyar Dondup, whom I had not seen during the whole time of the examinations, sent for me to go to his room. As I entered he beamed upon me: “You have done well, Lobsang. You are at the top of the list. The Lord Abbot has sent a special report to the Inmost One. He wanted to suggest that you be made a lama right away, but I have opposed it.” He saw my rather pained look, and explained: “It is much better to study and pass on your own merits. To be given the status is to miss much training, training which you will find vital in later life. However, you can move into the room next to mine, because you will pass the examination when the time comes.”
Quyết định của sư phụ thật rất hợp lý. Dầu sao, tôi chỉ mong mỏi được vâng lời người một cách tuyệt đối. Tôi rất cảm động mà thấy rằng sự thành công của tôi cũng là sự thành công của người và sư phụ không che giấu niềm tự hào khi tôi dẫn đầu trong tất cả các môn khảo thí.
Cuối tuần đó, một người đưa thư đến, thở hổn hển, lưỡi thè ra và như sắp chết – nhìn vẻ ngoài như vậy! – mang cho tôi một thông điệp của đức Đạt-lai Lạt-ma. Những người đưa thư luôn luôn sử dụng tài năng diễn kịch của họ để gây ấn tượng về tốc độ và khó khăn mà họ vừa phải trải qua để đưa bức thư mà họ được giao. Vì cung điện Potala cách đây chỉ có một dặm, nên tôi nghĩ anh ta đã “diễn” hơi quá trớn.
Đức Đạt-lai Lạt-ma gửi lời khen tặng tôi về việc tôi vừa thi đậu và chỉ thị rằng từ nay tôi sẽ được đối xử như một vị Lạt-ma. Tôi sẽ được mặc áo như các vị Lạt-ma cũng như được hưởng mọi quyền hạn và đặc ân dành cho chức vị ấy. Ngài cũng đồng ý với sư phụ tôi sẽ cho tôi dự cuộc khảo thí vào năm mười sáu tuổi, vì theo lời Ngài viết trong thư là:
“Như vậy con sẽ có cơ hội học hỏi thêm những đề tài mà có lẽ con sẽ bỏ dở nếu con được tấn phong ngay bây giờ, và nhờ đó con sẽ được mở mang kiến thức thêm sâu rộng.”
Bây giờ tôi đã là một Lạt ma, tôi sẽ không còn phải đến lớp học nữa. Điều đó cũng có nghĩa là mỗi thầy với kiến thức chuyên biệt có thể dạy tôi bất cứ lúc nào, vì vậy tôi có thể học nhanh tuỳ ý.
Một trong những điều đầu tiên tôi phải học là nghệ thuật thư giãn, mà nếu không có nó thì việc nghiên cứu thực sự về huyền môn không thể thực hiện được. Một hôm Đại Đức Minh Gia bước vào căn phòng nơi tôi đang đọc sách. Thầy nhìn tôi và nói: “Lobsang, trông con khá căng thẳng. Con sẽ không thể tiến bộ về khả năng tư duy một cách yên tịnh trừ khi con thư giãn. Ta sẽ chỉ cho con cách.”
That seemed fair enough to me; I was quite willing to do whatever my Guide thought best. It gave me a thrill to realize that my success was his success, that he would get the credit for training me to pass as the highest in all subjects.
Later in the week a gasping messenger, tongue protruding, and almost at the point of death—apparently!—arrived with a message from the Inmost One. Messengers always used their histrionic talents to impress upon one the speed with which they had traveled and the hardships they had endured to deliver the message entrusted to them. As the Potala was only a mile or so away I thought, his “act” rather overdone.
The Inmost One congratulated me on my pass, and said that I was to be regarded as a lama from that date. I was to wear lama robes, and have all the right and privileges of that status. He agreed with my Guide that I should take the examinations when I was sixteen years of age, “as in this way you will be induced to study those things which you would otherwise avoid, and so your knowledge will be increased by such studying”.
Now that I was a lama I should have more freedom to study without being held back by a class. It also meant that anyone with specialized knowledge was free to teach me, so I could learn as quickly as I wished.
One of the earliest things I had to learn was the art of relaxation, without which no real study of metaphysics can be undertaken. One day the Lama Mingyar Dondup came into the room where I was studying some books. He looked at me and said: “Lobsang, you are looking quite tense. You will not progress at peaceful contemplation unless you relax. I will show you how I do it.”
Thầy bảo tôi nằm xuống khi bắt đầu tập, dù ta có thể thư giãn khi đang ngồi hoặc thậm chí đang đứng, nhưng tốt hơn cả là nằm ngửa khi mới bắt đầu tập. “Hãy tưởng tượng là con rơi khỏi vách đá”, Thầy nói, “hãy tưởng tượng là con đang nằm trên mặt đất bên dưới, một thân hình bất động với toàn bộ cơ bắp thả lỏng, chân tay uốn cong như khi chúng rơi xuống, và miệng hơi hé mở, ngay sau đó cơ má sẽ hoàn toàn thư giãn.” Tôi loay hoay cựa quậy xoay người cho tới khi cơ thể ở đúng vị trí như Thầy bảo. “Bây giờ hãy tưởng tượng chân tay con đang đầy những người tí hon, họ bắt con làm việc bằng cách kéo các cơ bắp. Bảo người tí hon này hãy để mặc bàn chân của con đó để con không còn cảm giác, không động đậy, không căng cứng. Hãy để cho cái trí kiểm tra bàn chân của con để chắc chắn rằng không có cơ bắp nào đang hoạt động.” Tôi nằm đó cố gắng tưởng tượng về người tí hon. Nghĩ về ông già Tzu đang ngọ nguậy các ngón chân tôi từ bên trong! Ồ, tôi vui mừng được giải thoát khỏi ông ta.
“Sau đó hãy làm tương tự với hai cẳng chân của con. Bóng tối sẽ nhanh chóng bao trùm, nhưng bộ não và tâm trí đã được chuyển tới bắp chân. Con chắc hẳn phải có nhiều người tí hon đang làm việc lắm, Lobsang ạ, họ đã phải làm việc vất vả bởi con chạy nhảy suốt cả buổi sáng nay. Bây giờ cần cho họ nghỉ ngơi. Hãy dẫn họ lên phía đầu của con. Họ đã ra ngoài cả chưa? Con có chắc không? Hãy cảm nhận xung quanh bằng tâm trí của con. Hãy đưa họ rời khỏi các cơ bắp không được chăm sóc, để chúng được nghỉ ngơi và thư dãn.” Đột nhiên Thầy dừng lại và chỉ: “Nhìn kìa!” Thầy nói, “con quên một người trong đùi. Một người đàn ông tí hon vẫn còn ở lại trong cơ bắp kéo căng trên đùi của con. Hãy đưa ông ta ra ngoài, Lobsang, đưa ông ta ra.” Cuối cùng chân tôi cũng được thư giãn trước sự hài lòng của Thầy.
He told me to lie down as a start, for although one can relax sitting or even standing up, it is better to learn first by being supine. “Imagine you have fallen off a cliff,” he said. “Imagine that you are on the ground below, a crumpled figure with all muscles slack, with limbs bent as they have fallen and with your mouth slightly open, for only then are the cheek muscles at ease.” I fidgeted around until I had put myself the position he wanted. Now imagine that your arms and legs are full of little people who make you work by pulling on muscles. Tell those little people to leave your feet so that there is no feeling, no movement, no tension there. Let your mind explore your feet to be certain that no muscles are being used.” I lay there trying to imagine little people. Think of Old Tzu wiggling my toes from the inside! Oh, I’ll be glad to get rid of him. “Then do the same with your legs. The calves; you must have a lot of little people at work there, Lobsang. They were hard at work this morning when you were jumping. Now give them a rest. March them up towards your head. Are they all out? Are you sure? Feel around with your mind. Make them leave the muscles untended, so that they are slack and flaccid.” Suddenly he stopped and pointed: “Look!” he said, “you have forgotten someone in your thigh. A little man is keeping a tight muscle in your upper leg. Get him out, Lobsang, get him out.” Finally my legs were relaxed to his satisfaction.
“Bây giờ hãy làm giống như vậy với tay của con,” Thầy nói, “bắt đầu với ngón tay con. Hãy đưa họ đi ra, lên qua cổ tay, dẫn họ tới khuỷu tay, tới vai. Hãy tưởng tượng là con đang gọi đi tất cả những người tí hon đó để không còn bất kỳ trạng thái hay cảm giác căng thẳng nào.” Sau khi tôi làm được, Thầy nói: “Nào bây giờ tới cái thân nhé. Hãy giả bộ như cơ thể con là một ngôi chùa. Tưởng tượng rằng các nhà sư trong đó đang kéo căng các cơ bắp để bắt con làm việc. Hãy bảo họ đi ra. Quan sát rằng họ rời khỏi phần bên dưới của cơ thể trước, sau khi nới lỏng toàn bộ các cơ bắp. Bảo họ cứ để lại những gì đang làm và đi ra. Bảo họ nới lỏng các cơ bắp của con, tất cả các cơ bắp, để cho cơ thể con chỉ còn lại như một cái vỏ bên ngoài, nhờ đó mọi bộ phận đều chùng lại, rũ xuống và tìm lại đúng mức của nó. Khi ấy cơ thể con đã được thư giãn.”
Rõ ràng là Thầy hài lòng với sự tiến bộ của tôi, Thầy tiếp tục: “Cái đầu có lẽ là bộ phận quan trọng nhất cần được thư giãn. Xem chúng ta có thể làm gì với nó nào. Nhìn cái miệng con này, nó bị kéo căng mọi góc. Hãy thả lỏng ra, Lobsang, thả lỏng từng khóe miệng. Nào, con đâu có chuẩn bị nói hay ăn, vì thế đừng căng thẳng. Mắt con đang nheo lại kìa, làm gì có ánh sáng quấy rầy chúng đâu, vì thế chỉ cần nhẹ nhàng khép mi lại, thật nhẹ nhàng, đừng căng thẳng.” Thầy quay người nhìn ra cửa số đang mở. “Cách thư giãn tốt nhất của chúng ta là dưới ánh nắng mặt trời. Hãy học cách con mèo thư giãn ấy, không ai có thể làm tốt hơn nó được.”
“Now do the same with your arms,” he said, “starting with your fingers. Make them leave, up past the wrists, march them to the elbows, to the shoulders. Imagine that you are calling away all those little people so that there is no longer any strain or tension or feeling.” After I had got so far he said: “Now we come to the body itself. Pretend that your body is a lamasery. Think of all the monks inside pulling on muscles to make you work. Tell them to leave. See that they leave the lower part of the body first, after slackening off all the muscles. Make them drop what they are doing and leave. Make them loosen your muscles, all your muscles, so that your body is held together merely by the outer covering, so that everything sags and droops and finds its own level. Then your body is relaxed.”
Apparently he was satisfied with my stage of progress, for he continued: “The head is perhaps the most important part for relaxation. Let us see what we can do with it. Look at your mouth, you have a tight muscle at each corner. Ease it off, Lobsang, ease it off each side. You are not going to speak or eat, so no tension, please. Your eyes are screwed up: There is no light to trouble them, so just lightly close the lids, just lightly, without any tension.” He turned away and looked out of the open window. “Our finest exponent of relaxation is outside sunning herself. You could take a lesson from the way in which a cat relaxes, there is none who can do it better.”
Phải mất khá nhiều thời gian để viết những dòng này, và cũng dường như khó khăn khi đọc nó, nhưng chỉ cần luyệt tập một chút là có một cách đơn giản mà hiệu quả để thư giãn trong giây lát. Đây là một trong những phương pháp thư giãn chưa bao giờ thất bại. Những ai bị căng thẳng vì những lo toan cuộc sống có thể luyện tập theo chỉ dẫn này, và với hệ thống thần kinh thì theo hướng dẫn tiếp sau đây. Sau đó tôi được khuyên thực hiện một vài điều khác nữa. Đại Đức Minh Gia nói: “Việc làm dịu cơ thể vật lý chỉ đạt được kết quả thấp nếu con đang căng thẳng thần kinh. Khi con nằm ở đây, cơ thể vật lý được thư giãn, hãy để cho tâm trí của con dừng một lát những suy nghĩ của con. Vô ích mà theo đuổi những suy nghĩ này và xem chúng là gì. Thấy chúng tầm thường như thế nào. Sau đó chặn chúng lại, không cho phép những suy nghĩ tuôn ra nữa. Hãy tưởng tượng một màn đen hư vô, với những suy nghĩ đang cố gắng nhảy nhót lung tung. Lúc đầu một số sẽ nhảy qua. Hãy theo sau chúng, đưa chúng trở lại, và bắt chúng nhảy ngược trở lại khoảng không đen tối. Hãy thực sự tưởng tượng điều đó, hình dung nó thật mạnh mẽ, và trong một khoảng thời gian ngắn con sẽ “nhìn thấy” bóng tối mà không cần cố gắng và vì vậy hãy tận hưởng sự thư giãn tinh thần và thể chất hoàn hảo.”
It takes quite a long time to write this, and it seems difficult when it is read, but with just a little practice it is a simple matter to relax within a second. This system of relaxation is one which never fails. Those who are tense with the cares of civilization would do well to practice on these lines, and the mental system which follows. For this latter I was advised to proceed somewhat differently. The Lama Mingyar Dondup said: “There is little gain in being at ease physically if you are tense mentally. As you lie here physically relaxed, let your mind for a moment dwell on your thoughts. Idly follow those thoughts and see what they are. See how trivial they are. Then stop them, permit no more thoughts to flow. Imagine a black square of nothingness, with the thoughts trying to jump from one side to the other. At first some will jump across. Go after them, bring them back, and make them jump back across the black space. Really imagine it, visualize it strongly, and in a very short time you will “see” blackness without effort and so enjoy perfect mental and physical relaxation.”
Lại một lần nữa việc giải thích khó hơn thực hành rất nhiều. Đây thực sự là một việc rất đơn giản và nhẹ nhàng, và người ta cần phải thư giãn. Nhiều người không bao giờ đóng tâm trí lại và ngừng suy nghĩ, họ giống như người luôn cố gắng vận động cơ thể không ngừng cả ngày đêm. Một người cứ cố gắng đi bộ không ngừng nghỉ trong vài ngày đêm sẽ sớm suy sụp, ngay cả bộ não và tâm trí cũng không được nghỉ. Đối với chúng tôi, tất cả những gì chúng tôi thực hiện là để rèn luyện tâm trí. Chúng tôi được dạy võ thuật tới một đẳng cấp cao có tác dụng là bài tập về sự tự chủ. Vị Lạt ma dạy chúng tôi võ thuật có thể đẩy lùi và đánh bại mười kẻ tấn công cùng một lúc. Ngài rất yêu thích võ thuật, và ngài đã làm cho môn học vô cùng thú vị theo cách của mình. Nghe đến “Siết cổ” có vẻ man rợ và tàn nhẫn theo cách nghĩ của người phương Tây, nhưng ấn tượng như vậy là hoàn toàn sai lầm. Như tôi đã trình bày, bằng một vài động tác điểm huyệt nhẹ nhàng vào cổ, chúng tôi có thể làm cho một người mất ý thức trong một phần nhỏ của giây, trước khi người đó biết mình đang bị mất ý thức. Một cái chạm nhẹ làm tê liệt thần kinh hoàn toàn vô hại. Ở Tây Tạng không có thuốc mê, chúng tôi thường phải sử dụng phương pháp này khi nhổ răng, hoặc nắn lại khớp xương bị trật. Bệnh nhân không biết gì, cũng không phải chịu đựng sự đau đớn. Nó cũng thường được sử dụng lúc khởi đầu khi linh hồn rời khỏi cơ thể để chu du trong cõi trung giới.
Here again it is far more difficult to explain than do. It really is a very simple affair with slight practice, and one must have relaxation. Many people have never shut off their mind and thoughts and they are like the people who try to keep going physically day and night. A person who tried to walk without rest for a few days and nights would soon collapse, yet the brain and mind are given no rest. With us everything was done to train the mind. We were taught judo to a high standard as an exercise in self control. The lama who taught us judo could repel and defeat ten attackers at once. He loved judo, and went out of his way to make the subject as interesting as possible. “Strangle holds” may seem savage and cruel to Western minds, but such an impression would be utterly wrong. As I have already shown, by giving a certain little touch to the neck we could make a person unconscious in a fraction of a second, before he knew he was losing consciousness. The little pressure paralyzed the brain harmlessly. In Tibet, where there are no anesthetics, we often used that pressure when extracting a difficult tooth, or in setting bones. The patient knew nothing, suffered nothing. It is also used in initiations when the ego is released from the body to do astral traveling.
Với sự luyện tập này chúng tôi hầu như tránh được mà không bị ngã. Một phần của võ thuật là biết cách tiếp đất nhẹ nhàng, “thế ngã” là thuật ngữ trong võ thuật, và bài tập phổ biến cho những cậu bé như chúng tôi là nhảy từ những bức tường cao từ ba đến năm mét để giải trí.
Hàng ngày, trước khi bắt đầu buổi tập võ thuật, chúng tôi phải đọc thuộc lòng các bước của Con đường Trung Đạo, giáo lý cốt lõi của Phật Giáo, đó là:
Chính kiến: Đó là quan điểm và ý kiến thoát khỏi ảo tưởng và cầu xin.
Chính tư duy: Theo đó con người phải có mục đích và quan điểm cao quý và đáng trọng.
Chính ngữ: Trong lời nói phải tử tế, dịu dàng và chân thật.
Chính nghiệp: Điều này làm cho con người thanh tịnh, dịu dàng và vị tha.
Chính mạng: Để tuân theo điều này, ta phải tránh làm tổn thương người khác và các loài vật, và phải tôn trọng quyền của họ như với chính mình vậy.
Chính tinh tiến: Phải có sự tự chủ, và tự rèn luyện không ngừng.
Chính niệm: có suy nghĩ đúng đắn và cố gắng làm những điều đúng đắn.
Chính định: Đây là niềm vui xuất phát từ thiền định về thực tại của cuộc sống và về bản chất của toàn thể mọi sự vật.
Nếu người nào trong chúng tôi vi phạm giáo lý chúng tôi sẽ bị nằm sấp ngang qua lối vào chính của tu viện, để tất cả những người ra vào bước qua người. Chúng tôi sẽ phải ở đó từ lúc bình minh tới tận đêm tối, không được cử động, và không được ăn uống. Đây được xem là một điều hổ thẹn vô cùng.
With this training we were almost immune to falls. Part of judo is to know how to land gently, “breakfalls” it is termed, and it was a common exercise for us boys to jump off a ten—or fifteen—foot wall just for fun.
Every other day, before starting our judo practice, we had to recite the Steps of the Middle Way, the keystones of Buddhism; these are:
- Right Views: Which are views and opinions free from delusions and self-seeking.
- Right Aspirations: By which one shall have high and worthy intentions and opinions.
- Right Speech: In which one is kind, considerate, and truthful.
- Right Conduct: This makes one peaceful, honest, and selfless.
- Right Livelihood: To obey this, one must avoid hurting men or animals, and must give the latter their rights as beings.
- Right Effort: One must have self-control, and undergo constant self-training.
- Right Mindfulness: In having the right thoughts and in trying to do that which is known to be right.
- Right Rapture: This is the pleasure derived from meditating on the realities of life and on the Overself.
If any of us offended against the Steps we had to lie face down across the main entrance to the temple, so that all who entered had to step over the body. Here we would stay from the first dawn until dark, with no movement, and no food or drink. It was considered to be a great disgrace.
Thế là tôi đã trở thành một vị Lạt-ma. Tôi thuộc về thành phần ưu tú, thành phần của những bậc “Thượng nhân”! Nhưng điều này cũng có sự bất lợi đối với một đứa trẻ mười sáu tuổi như tôi, vì trước kia tôi phải giữ ba mươi hai điều giới luật của người tu sĩ, một con số mà tôi vẫn cho là đáng e ngại; nhưng khi trở thành một vị Lạt-ma, tôi phát hiện một cách kinh khủng rằng số giới luật bây giờ phải là hai trăm năm ba điều. Và nhất là ở tu viện Chakpori, một vị Lạt-ma chân chính phải giữ tròn bấy nhiêu điều giới luật đó, không bỏ sót một điều nào.
Dường như đối với tôi, thế giới này ngập tràn những điều phải học hỏi, tôi nghĩ đầu tôi sẽ nổ tung. Nhưng cũng rất thú vị khi ngồi trên mái tu viện và xem Đức Đạt Lai Lạt Ma đến thăm Norbu Linga, hay Jewel Park ngay bên dưới. Tôi phải ẩn nấp khi tôi xem Đấng Thái Tuế, vì không ai được phép nhìn xuống Ngài. Cũng ở bên dưới, nhưng ở phía bên kia ngọn núi Thiết Sơn, tôi có thể ngắm nhìn hai công viên tươi đẹp, Khati Linga, và bên kia dòng suối có tên là Kaling Chu, là công viên Dodpal Linga. “Linga” có nghĩa là “Công viên”, hoặc ít nhất thì nó cũng gần giống với cách đánh vần theo cách viết của người phương Tây. Xa hơn về phía bắc tôi có thể ngắm nhìn Cổng Tây, Pargo Kaling. Biểu tượng lớn nhất này chấn ngang con đường dẫn từ Drepung, qua làng Sho, và tiếp đến trung tâm của thành phố. Gần hơn nữa, gần như dưới chân tu viện Charpori, là tượng đài tưởng nhớ một trong những vị anh hùng lịch sử của chúng tôi, đức vua Kesar, người đã sống trong thời kỳ chiến tranh trước khi Đạo Phật và hòa bình đến với Tây Tạng.
Now I was a lama. One of the elite. One of the “Superior Ones”. It sounded just fine. But there were catches: before I had to obey the frightening number of thirty-two Rules of Priestly Conduct. As a lama, to my horror and dismay, I found that the total was two hundred and fifty-three. And at Chakpori the wise lama did not break any of those Rules! It seemed to me that the world was so full of things to learn, I thought my head would burst. But it was pleasant to sit up on the roof and watch the Dalai Lama arrive at the Norbu Linga, or Jewel Park, just down below. I had to keep hidden when I so watched the Precious One, for no one must look down on him. Down below, too, but on the other side of our Iron Mountain, I could look on two beautiful parks, the Khati Linga, and just across the stream, called the Kaling Chu, the Dodpal Linga. “Linga” means “park”, or at least it is the nearest spelling according to the Western style of writing. More to the north I could gaze upon the Western Gate, the Pargo Kaling. This great chorten straddled across the road leading from Drepung, past the village of Shö, and on to the heart of the city. Nearer, almost at the foot of the Chakpori, was a chorten commemorating one of our historical heroes, King Kesar, who lived in the warlike days before Buddhism and peace came to Tibet.
Còn về công việc, tuy chúng tôi phải làm việc nhiều nhưng cũng không thiếu những niềm vui tinh thần và những cuộc chơi tiêu khiển.
Thật là một niềm hạnh phúc rất lớn khi được sống gần những người như Đại đức Minh Gia, người mà mục tiêu duy nhất trong đời là mang lại sự bình an và phụng sự nhân loại.
Thật là một phần thưởng tinh thần khi được nhìn ngắm trước mắt phong cảnh êm đềm với một thung lũng xanh tươi, cây cối sầm uất, với những con sông rạch màu nước xanh dương uốn khúc quanh co theo những dãy núi đồi ngoạn mục, với những ngọn tháp vàng chiếu lấp lánh dưới ánh mặt trời, những tu viện cổ kính bám chặt trên các sườn núi cheo leo hiểm trở… và chiêm ngưỡng với một lòng tôn kính những mái bầu bằng vàng của điện Potala ở gần bên, với những nóc nhà sặc sỡ dọc theo bờ sông Jo-Kang ở xa hơn về phía đông.
Tình đồng môn của các vị Lạt-ma trong tu viện, lòng ưu ái của các nhà sư, mùi hương trầm quen thuộc phảng phất trong các đền thờ… tất cả những thứ đó là bối cảnh hằng ngày của cuộc đời tu sĩ, và tôi lấy làm vui mừng khi nhận ra đó là một cuộc đời đáng sống.
Còn những khó khăn, chướng ngại thì cũng rất nhiều, nhưng điều đó không quan trọng lắm. Ở trong mọi tập thể cộng đồng vẫn luôn có mặt những phần tử thiếu sự cảm thông, những kẻ mang nặng lòng đố kỵ ganh ghét… Nhưng ở tu viện Chakpori, những kẻ ấy quả thật chỉ là một thiểu số.
Work? We had plenty of that; but we had our compensations, our pleasures as well. It was compensation in full, and brimming over, to associate with men like the Lama Mingyar Dondup. Men whose sole thought was “Peace”, and help for others. It was payment, too, to be able to look over this beautiful valley so green and peopled with well-loved trees. To see the blue waters meandering through the land between the mountain ranges, to see the gleaming chortens, the picturesque lamaseries and hermitages perched on inaccessible crags. To look, with reverence, on the golden domes of the Potala so near to us, and the shining roofs of the Jo-Kang a little farther to the east. The comradeship of others, the rough good-fellowship of the lesser monks, and the familiar scent of incense as it wafted around the temples—these things made up our life, and it was a life worth living. Hardship? Yes, there was plenty. But it was worth it; in any community there are those of little understanding, of little faith: but here at Chakpori they were indeed in the minority.
Dịch giả: Nguyễn Hữu Kiệt
Dịch bổ sung và biên tập: Cộng đồng thiền Việt Nam – VMC