Tiến sĩ Dashira Narada
14:01 24/10/2016Tiểu sử Tiến sĩ Dashira Narada
Ngày 24 tháng 10 năm 1846, tại thành phố Colombo (Sri Lanka), Dashira Narada đã được sinh ra trong một gia đình có uy tín cao. Cha của ông là Ajita Narada, người Sri Lanka nhưng mang dòng máu của dòng họ Bombayese đài các.
Tiến sĩ Dashira Narada:
Trong lịch sử, Ấn Độ, Trung Quốc và Tây Tạng đã xuất hiện nhiều nhà hiền triết giác ngộ và tu sĩ nổi tiếng, nhiều người trong đó đã sở hữu sức mạnh siêu nhiên. Trong thế giới khoa học và công nghệ hiện đại ngày nay với sức cạnh tranh ghê gớm đã có thành tích đáng kể trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Ở nhiều nơi đạo đức xã hội bị xuống cấp, lương tâm của một bộ phận con người đã bị xói mòn và thoái hóa theo thời gian. Họ đã nghĩ rằng những lời dạy của các giáo lý ban đầu đối với hầu hết các giáo phái tôn giáo đã đạt đến giai đoạn suy giảm đáng kể.
Tuy nhiên, providentially – ngọn lửa tinh thần tiếp tục tỏa sáng trong cuộc sống. Trên hành trình tu luyện tâm linh, nhiều học viên đã bị suy sụp tinh thần và “đổ ngã” trên tuyết lạnh hoặc bỏ xác lại ở giữa rừng sâu, trước khi họ có thể thưởng thức mật hoa của sự Giác ngộ. Trong khó khăn, rất nhiều người khác trở nên chán nản, mất ý chí và chính họ đã sớm từ bỏ mục tiêu của mình. Một số khác bị mất tâm trí – họ gặp phải những vấn đề của sự phân tán nhiệt nội bộ và trở thành tàn tật vĩnh viễn. Thế giới Đông phương là một vùng đất thiêng liêng giàu năng lượng và hết sức quan trọng trong vấn đề về tâm linh.
Ngày 24 tháng 10 năm 1846, tại thành phố Colombo (Sri Lanka),Dashira Narada đã được sinh ra trong một gia đình có uy tín cao. Cha của ông là Ajita Narada, người Sri Lanka nhưng mang dòng máu của dòng họ Bombayese đài các. Sri Lanka (phiên âm tiếng Việt là: Xri Lan-ca; tiếng Việt xưa gọi là Tích Lan), tên chính thức: Cộng hòa Dân chủ Xã hội Chủ nghĩa Sri Lanka, là một đảo quốc với đa số dân theo Phật giáo ở Nam Á, nằm ở biển Ấn Độ Dương, cách khoảng 33 dặm ngoài khơi bờ biển bang Tamil Nadu phía nam Ấn Độ.
Lớn lên, Dashira Narada du học tại Ấn Độ và đã đậu bằng Tiến sĩ Triết học. Rồi ông trở thành một quan chức ngoại giao (có tài liệu nói là ngành Y tế) với một chức vụ khá cao và được bảo vệ nghiêm ngặt như những nhân vật quan trọng khác của Chính phủ Ấn Độ. Mẹ ông là người Tích Lan, một Phật tử dịu dàng với đầy đủ các đức hạnh của một người phụ nữ châu Á điển hình.
Kế thừa những phẩm chất của cha mẹ, Dashira Narada đã có một trái tim nhiệt huyết, công bằng và một tâm hồn cao thượng. Ông là con trai duy nhất và niềm hy vọng duy nhất cho gia đình. Mặc dù cha ông muốn ông phát triển nghề nghiệp trong các vấn đề xã hội hay kinh tế ở nước ngoài, nhưng Dashira Narada đã không từ bỏ ý định tìm kiếm sự giải thoát về tinh thần. Ông ghi danh vào nghiên cứu Triết học phương Đông tại Đại học Nalanda (Ấn Độ) và sau mấy năm miệt mài học tập, nghiên cứu, ông đã nhận bằng Tiến sĩ bậc ưu trong năm 1871. Đại học Nalanda là một trung tâm học tập bậc cao có từ thời cổ đại ở bang Bihar, Ấn Độ, tồn tại từ thế kỷ thứ 5. Đại học Nalanda có một bề dày truyền thống như là một tu viện (Vihara) trước khi trở thành một trường Đại học Phật giáo quốc tế, đồng thời cũng là một trung tâm văn hóa thế giới có tiếng tăm.
Các kiến thức về triết lý Đông phương đã giúp ông hiểu sâu sắc về sự vô thường của cuộc sống. Lòng nhân từ của ông, khát vọng cao quý của ông và những kiến thức cao siêu về Triết học phương Đông mà ông đã hấp thụ được là động cơ thúc đẩy ngài Tiến sĩ trẻ đi tìm kiếm sự giải thoát cho chính mình cũng như đối với loài người.
Khi cha của ông qua đời vào năm 1888, Chính phủ Sri Lanka đã mời Dashira Narada về tham gia vào công việc của nhà nước, nơi quê hương yêu dấu mà cha mẹ mình đã dành trọn niềm yêu quý. Sự cống hiến của ông đã mang lại nhiều kết quả tốt đẹp, đạt yêu cầu Bộ Ngoại giao Sri Lanka. Từ những thành tựu trong học tập, nghiên cứu và làm việc của mình, Dashira Narada đã bảo đảm cho mình một tương lai tươi sáng trong chính phủ.
Năm 1893, đột nhiên Tiến sĩ Dashira Narada từ chức khỏi vị trí công tác của mình, một vị trí lý tưởng mà nhiều người khác mong muốn cũng không dễ có được. Mặc một bộ quần áo nâu đã bạc màu, mang một cây gậy đơn giản, ông đã lặng lẽ bỏ lại đằng sau tất cả,… Ông đi bộ trên khắp đất nước Ấn Độ tự tìm kiếm cho mình con đường tu học. Thế rồi, ông đặt đôi chân trần đến dãy núi Hy Mã Lạp Sơn và bắt đầu thực hành “con đường” tâm linh của mình.
Sau 18 năm tự tu luyện miệt mài trong hang núi, ngài Dashira Narada đã đạt được sự Giác ngộ chiếu sáng, tự khai mở được Luân xa của mình và đã có thể tự hấp thụ năng lượng vũ trụ vào cơ thể của mình. Điều đặc biệt là ngài cũng đã thành công trong việc phát hiện ra một phương pháp để giúp khai mở Luân xa cho người khác, mà không đòi hỏi họ phải đi qua một quá trình tu luyện lâu dài và khó khăn như mình đã trải qua. Thế rồi, ngài xuống núi đi khắp nơi mang những kinh nghiệm có được sau 18 năm tu luyện để giúp đời.
Với nhận thức sâu sắc về những thử thách đã trải qua và ý thức mở rộng, Tiến sĩ Dashira Narada đã giới thiệu tầm nhìn mới cho đời sống con người ở xã hội Ấn Độ đương thời và tiếp tục phát triển hoàn thiện những kiến thức về rèn luyện sức khỏe cả Tâm lẫn Thân để đưa ra giúp người dân.
Sau nhiều năm đi khắp nơi để giúp mọi người, vào năm 1916 Tiến sĩ Dashira Narada tìm thấy một người gốc Sri Lanka trên đất Ấn Độ, tên thật là Sumanapala, đã đạt đến tuổi 18, có đầy đủ những phẩm chất, tố chất và khả năng để kế thừa phát huy những kết quả đã có và tiếp tục giúp cho đời. Với sự tự tin tuyệt vời, Tiến sĩ Dashira Narada đã chia sẻ tất cả các kiến thức cùng những kinh nghiệm của mình và hy vọng người kế thừa sẽ tiếp tục đưa ra giúp cho nhân loại bớt khổ đau.
Sau 8 năm giảng giải, hướng dẫn cho đệ tử, vào năm 1924, Tiến sĩ Dashira Narada truyền lại bí quyết (“chìa khóa”) và đưa người học trò của mình ra giúp đời, còn mình tìm đến một nơi bí ẩn và từ đó không có ai bao giờ nhìn thấy ngài một lần nữa. Người đời sau tôn vinh Tiến sĩ Dashira Narada là Tổ sư đời thứ Nhất (hay Đệ nhất Tổ sư) của pháp môn Trường Sinh học, và người ta đã chọn ngày 24 tháng 10 dương lịch hàng năm làm ngày kỷ niệm Sinh nhật của Đức Tổ sư Dashira Narada.
Người kế thừa trọng trách của Tiến sĩ Dashira Narada tên là Sumanapala, sinh ngày 17 tháng 7 năm 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô Sri Lanca, sau này đã trở thành Tổ sư đời thứ Hai (hay Đệ nhị Tổ sư). Sumanapala là một Ki-tô hữu gốc, nhưng cũng có tài liệu nói ngài xuất thân từ một gia đình Phật tử trí thức trung lưu, lúc thiếu thời được gửi đi học trong trường St Benedicts College, là một trường Thiên Chúa giáo thuộc Dòng La San (Trường St Benedicts College Colombo thành lập năm 1865, tọa lạc tại Mayfield Rd, Colombo 13, Sri Lanca). Sau khi chấp nhận nhiệm vụ từ Tiến sĩ Đasira Narađa, ông đã thực hành tâm linh theo Phật giáo dưới cái tên là Narada Maha Thera (Đại lão Hòa thượng Narađa). Ngài Narada Maha Thera vào học Đại học Quốc gia Sri Lanca (Đại học đường Tích Lan) và cũng đã đạt tới học vị Tiến sĩ Triết học, về sau được bổ nhiệm làm giáo sư Đạo đức học và Triết học tại trường đại học này. Từ đó cho đến cuối đời, ngài đã lặng lẽ thực hành và duy trì kỷ luật của pháp môn Trường Sinh học.
Tiến sĩ Narada Maha Thera đã có một mối quan hệ tốt với Việt Nam. Trong những năm từ 1930 đến 1950, ông đi đến nhiều nơi tại miền Nam Việt Nam để hoằng pháp. Ông đã đại diện Hội Phật giáo Ấn Độ đến thăm Hội Phật giáo Việt Nam, đề nghị trùng tu một số di tích của Đức Phật tại Việt nam, tặng cây Bồ đề và nhiều ấn phẩm văn học tinh thần, ảnh di tích của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cho Việt Nam. Một số những cây Bồ đề ngài đưa từ Ấn Độ sang trồng ở Việt Nam hiện đang xanh tốt tại các địa phương như: Thích Ca Phật Đài (TP. Vũng Tàu), trụ sở Ủy ban MTTQ quận Phú Nhuận (TP. HCM),… Năm 1972, Tổ sư đời thứ Hai, Tiến sĩ Narada Maha Thera đến thăm Việt Nam lần cuối cùng và ông đã nhận hướng dẫn cho 5 người Việt Nam (có 4 người đàn ông và 1 phụ nữ) để truyền lại bí quyết Trường Sinh học. Năm 1974, Tiến sĩ Narada Maha Thera trở lại Sri Lanka.
Ngày Chủ nhật thứ 2 của tháng Mười năm 1983 (tức là ngày 09-10 dương lịch; ngày 04-9 Quý Hợi; tiết Hàn lộ), Tổ sư đời thứ Hai, Tiến sĩ Narada Maha Thera viên tịch ở tuổi 85 tại Vajirarama Temple, nơi ông đã lãnh đạo trong suốt những năm cuối của cuộc đời. Tang lễ của ông được long trọng tổ chức như một tang lễ cấp nhà nước của Chính phủ Sri Lanka và Giáo hội Phật giáo Sri Lanka.